NƯỚC TÂY ÂU - MỘT BÀI VIẾT THEO QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC (PHẦN 1)


Tây Âu
Tây Âu còn được gọi là Âu Việt, là vùng đất cổ từ thời Tần Hán ở Gui JiangXun Jiang khu vực gồm nhiều bộ lạc cổ xưa. Trong " Baiyue hiền mở đầu chí" cũng  có nói đến miền Nam, Tây nam sông Dương Tử. Lưu ý của Guo Yan " Shan Hai Jing " cho biết: "Trong biển Bột Hải, huyện Ngọc Lâm là Tây Lỗ", "Cổ Đường Địa Lý" có "Quý Châu” (nay là Guangxi -  Guixian), Nhà Tần, Hán,  gồm cả Panzhou (bây giờ Gaozhou thuộc tỉnh Quảng Đông). Nhà nước cổ Tây Âu, Lạc Việt. Thời gian tồn tại: Từ thời cổ đại đến triều đại Tần và Hán
Lịch sử
Theo các hồ sơ "Hán địa lý", Baiyue (Bách Việt) rải rác từ Giao Chỉ đến Hợp phố gồm bảy mươi tám quận, Bách Việt gồm nhiều tộc người, mỗi tộc ở một chế độ khác nhau. Từ phía nam của Giang Tô lên hàng ngàn dặm dọc theo bờ biển phía đông nam của phần phía Bắc của Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Quảng Tây và Việt Nam. Gồm các bộ lạc Yue (Việt) cổ xưa, là khu vực phân bố tập trung nhất.
Các tài liệu thời Hán có đề cập đến các bộ tộc "man di” ở phương Tây có Tây Âu, tự trị ở miền nam triều đình. "Baiyue hiền triết chí" cũng có nói: "Đất Tống Xiang Li phía nam, cũng là phương Tây Ou, còn được gọi là Tây Việt Nam, hoặc (Luo) Lạc. Tây Âu theo sử sách nhà Hán là những vùng đất nhỏ, rời rạc phía nam triều đình, "Bách Việt hiền triết chí" cũng nói: "Đất Tống cũ phía nam có Tây Âu còn được gọi là Tây Vu, hoặc Luo (Lạc) trở thành Âu Việt, Lạc Việt.
Thời Xuân Thu (770 TCN - 221 TCN), có một tộc lưu vực sông Âu, chính xác hơn là ở miền đông khu vực Chiết Giang, có những bộ lạc đại diện cho miền Nam, sông Tây, Tấn sông, khu vực Quế Lâm. Để thấy sự khác biệt, mọi người gọi chung nó thành Âu vì ở phía Tây sông Tấn, Quế Lâm nên gọi chung lại là Tây Âu. "Hán sử" có đề cập Triệu Đà đã phái một đội quân gồm cả người Tây Âu và người Hán phía nam; phía đông Phúc Kiến hàng vạn người còn được gọi là King đi xuống phía Nam và Tây sông Dương tử khai phá.
Do khoảng cách địa lý từ phía Bắc vào phía Nam, đồng bằng miền Trung và Lĩnh Nam được đề cập đến trong các bản viết cổ trên trước thời  Tần về Tây Âu rất ít. Bách Việt các bộ lạc đều gần gũi, thường xuyên giao dịch qua lại, trong khi ở phía bắc nhà Thương và Chu đã từng có các đoàn thương nhân trao đổi ngà , đồi mồi , ngọc bích , sừng , quế và gỗ đàn hương và hàng xa xỉ khác với đồng bằng miền Trung, gồm cả các bộ lạc Tây Âu. Còn có cả sừng tê giác, răng voi, ngọc, đá quý
Đồ Thư ngự xử giám thời Tần đã đem 50 vạn quân,  chia làm 5 đạo:
- Đạo thứ nhất đóng ở đèo Đàm Thành, là đèo thuộc đất Thủy An trên núi Việt Thành, Ngũ Lĩnh, trên đường từ Hồ Nam xuống đông bắc Quảng Tây.
- Đạo thứ hai đóng ở ải Cửu Nghi, ở phía đông bắc Quảng Tây giáp Hồ Nam
- Đạo thứ ba đóng ở Phiên Ngung
- Đạo thứ tư đóng ở Nam Dã
- Đạo thứ năm đóng ở sông Dư Can
Đạo quân thứ nhất và đạo thứ hai tiến sâu về phía nam, vào Quảng Tây là địa bàn của người Tây Âu, hay Âu Việt. Đạo thứ ba đóng ở Phiên Ngung thuộc Nam Việt (Quảng Đông), đi theo đường Trường Sa vượt qua Ngũ Lĩnh đến Quảng Đông. Đạo quân thứ tư và đạo quân thứ năm tạo thành hai cánh quân đánh Đông Việt (nam Chiết Giang) và Mân Việt (Phúc Kiến). Sau đó hai đạo quân này cùng đạo quân thứ ba hội nhau ở Phiên Ngung, hội với đạo quân thứ ba, đánh chiếm đất Nam Việt, lập ra quận Nam Hải. Trong khi 3 đạo quân nói trên tác chiến, đạo quân thứ nhất và thứ hai ngược dòng sông Tương bắt nguồn từ Ngũ Lĩnh, nhưng đến đầu nguồn thì không có đường thủy để chở lương sang sông Ly (tức sông Quế) – vùng nội địa Quảng Tây. Vì vậy, Đồ Thư sai Sử Lộc mang một số binh sĩ đi làm cừ để mở đường lương. Đường cừ mà Sử Lộc mở được các nhà sử học xác định chính là Linh Cừ hay kênh Hưng An nối liền sông Tương và sông Quế, hiện nay vẫn còn.
 Kết quả Tây Âu đã đẩy lùi quân Tần, có thể thấy rằng bộ lạc Tây Âu là một thành viên mạnh mẽ hơn của Bách Việt. Sau khi Tần tiêu diệt sáu quốc gia và thậm chí cả người Hung Nô mà không cần nhiều nỗ lực, với ngoại lệ của miền Nam, Tây Nam Âu khu vực bộ lạc, hàng trăm ngàn quân Tần trong ba năm đã không dễ chinh phục, thậm chí chỉ huy Tần, Đồ Thư đã bị giết, có thể thấy rằng các bộ lạc miền Nam Quảng Đông và Tây Triệu ở Lĩnh Nam rất mạnh. Mặc dù chưa có mô hình nhà nước tiên tiến như đồng bằng miền Trung, nhưng nó cũng đã được hình thành, và cũng có những hình thái quốc gia sơ khai, như "vua" và "các thành phần của nhà nước".
Tuy nhiên, có những ghi chép cổ xưa được tìm thấy: "Tại nhiều thị trấn, thung lũng,  những khu vực khác có thể có quy mô hàng trăm hàng ngàn dặm. Những thư mục ghi lại bằng thẻ tre, vách đá và da thú. Từ mô tả của những cuốn sách cổ xưa này, có thể thấy rằng phần lớn các nhóm dân tộc Bách Việt đã sống cùng nhau, cư trú, quanh những ngôi làng được bao quanh bởi rùng núi. Bách Việt còn lưu lại là một loạt các tên gọi riêng biệt thể hiện ở xung quanh khu vực sông Tây Giang.
Tong Luo (ruộng bậc thang), là một cánh đồng lúa ở vùng núi, mà bây giờ chúng ta gọi là "công thức". Từ "công thức" này, khi đọc ở phương ngữ Quảng Châu [long3], đại diện cho một cánh đồng lúa cạn có tiềm năng cao có khả năng tưới nước. Khi tôi đọc phương ngữ Quảng Châu thứ năm [lang5], điều tôi thể hiện là một cánh đồng lúa có độ cao thấp. Các công trình sư Tây Âu là người đã cày cấy trên những ruộng này này.
Có những tài liệu sẽ nói rằng bộ lạc Bách Việt tương đối lạc hậu để cày ruộng, nhưng công nghệ sản xuất của họ là tuyệt vời. Trong các di tích đã khai quật được đồ trang trí, trống thép trên rất tốt, như là một hoặc hai di tích văn hoá dân tộc bộ sưu tập của Bảo tàng tỉnh Quảng Đông, là nhân chứng của nền văn minh Bách Việt.
Luo Yue (Lạc Việt) đã dần dần di chuyển về phía nam. Đến cuối thời kỳ Chiến Quốc, di cư đến khu vực Hà Nội này, thiết lập gia đình Nam Kinh (gia đình Việt Nam), tổ tiên Lạc Rồng, tạo ra một "văn hóa Âu Lạc" tươi sáng.
Bách Việt, còn được gọi là người Việt cổ đại, người Yue cổ đại, hoặc người Việt, theo nghĩa rộng hơn. Bao gồm cả "Quảng Đông" bởi vì "Việt Nam" và "Quảng Đông" cổ đại được kết nối, không chỉ trong thời hiện đại. Bằng cách này, từ "Bách Việt" và được viết là "Trăm Việt" là toàn bộ thung lũng sông Châu Giang. Có rất nhiều chi nhánh ở Bách Việt. Những tộc lớn  là Yangyue (hiện tại khu vực Dương Châu), Dongxu (nay là khu vực Chiết Giang), Zhanyue (nay là khu vực Phúc Kiến), Nam Việt Nam (nay là tỉnh Quảng Đông), Xiqiao (nay là Guangdong Zhaoqing, Yunfu, Gaozhou, Guangxi Yulin, Guigang, Lô Châu, Hà Châu, vv), Luan (Luo) Yue (nay là Quảng Tây Nam Ninh và phía nam đến miền Trung Việt Nam).
Một số người nghĩ rằng Ôn Châu có rất nhiều đồ gốm và Xiqiao có ý nghĩa về đồ gốm, vì vậy, đó là Ôn Châu, và người Ôn Châu là những nhà sáng lập. Một số người nghĩ dựa trêb độ tuổi của các nghêu và các đồ sành sứ nhưng sau đó rất khó giải thích. Một số chuyên gia đã nghiên cứu rằng "Ôn" không phải là một từ vựng tiếng Trung. Ghi chép lịch sử: "Đông Nam nói Dương Châu ...... cho biết một huyện, đề cập đến lãnh thổ đảo hồ Chiết Giang, hồ hoặc nơi ven biển bao quanh bởi nước và đó là do đọc chệch từ “âu”. Trong Shan Hai Jing , cũng có câu nói rằng "biển ở biển" Nó cũng được xác nhận rằng "Ôn" là "Âu" và chúng đồng nghĩa với nhau. Những người Việt sống ở phía đông của các tỉnh Giang Tô và Chiết Giang - “dân chúng” là “Ôn”. Những người Yue sống ở phía tây của khu vực Lĩnh Nam cũng được gọi là "Âu". Tất cả chúng đều là một. Để cho thấy sự khác biệt, đó, nó là cách gọi để chỉ những người Việt của tỉnh Giang Tô và Chiết Giang là "Đông Hán", và cho người Yue ở phía tây của dãy núi Lĩnh Nam là "Tây Âu".
Sau các cuộc chiến tranh Tần và Hán Bách Việt dần biến mất.
Tần Thủy Hoàng tham vọng đã thôn tính sáu quốc gia và chinh phục Lingnan (Lĩnh Nam). Khách quan mà nói, Hoa Hạ trở thành một quốc gia đa sắc tộc thống nhất.
(Còn tiếp)

Popular Posts

Cuộc đời và sự nghiệp Thượng tướng Chu Văn Tấn

SỰ TÍCH TẠI SAO VỊT KHÔNG BIẾT ẤP TRỨNG

NÓI XIN CHÀO THEO CÁCH CỦA NGƯỜI TÀY - NÙNG

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 50

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 25

Popular Posts

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 48

NÓI XIN CHÀO THEO CÁCH CỦA NGƯỜI TÀY - NÙNG

SỰ TÍCH TẠI SAO VỊT KHÔNG BIẾT ẤP TRỨNG

CÁC TỪ CHỈ VỊ TRÍ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TRONG TIẾNG TÀY - NÙNG

SLON PHUỐI TÀY-NÙNG. BÀI 49

Popular Posts

CẨU CHỦA CHENG VÙA (CHÍN CHÚA TRANH VUA)

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 1

Các thì trong tiếng Tày - Nùng

VẤN ĐỀ CƯƠNG VỰC NƯỚC ÂU LẠC

VẤN ĐỀ ÂU VIỆT VÀ LẠC VIỆT

TRUYỀN THUYẾT TÀY - NÙNG: 3 TRUYỆN

MỘT GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÂN CHIA CÁC DÂN TỘC TÀY, NÙNG

Người truyền lệnh bằng tiếng Tày trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 42