Sau khi Tần Thủy
Hoàng sát nhập 6 vương quốc, ông đã tiến hành một chiến dịch quân sự quy
mô lớn để chinh phục Lĩnh Nam.
Theo ghi chép lịch
sử, Tây Hán Hoài Nam viết: " Trong các vùng đất lần đầu tiên quân
Tần phải thương vong tới năm trăm nghìn binh sĩ, một thành phố quân sự cắm ở
Xin Ling, một phòng thủ quân sự cắm ở thủ đô Phiên Ngung, quân sự tạo sự khó
khăn cho quân Tần nhất là trong mùa khô. Cuối cùng, quân đội của nhà
Tần đã chinh phạt Phúc Kiến, Giang Tây, Giang Tô và Chiết Giang phá hủy kinh
đô của Quảng Đông - Phiên Ngung, nửa triệu quân chia ra năm hướng Giang Tây,
Hồ Nam, Quý Châu, Quảng Tây, bao quanh Tây Âu, một trận chiến kéo dài, cả hai
bên đều thương vong lớn. Các đường tiếp tế lương thực, thực phẩm bị
cắt đứt và càng có nhiều người chết, thương vong, 6 tháng sau Tây Âu hoàn
toàn thất thủ. Tuy nhiên, nhà Tần cai trị Tây Âu đã không hề dễ dàng.
Các cuộc chống trả lẻ tẻ, đẫm máu vẫn diễn tra. Đặc biệt là các
cuộc chống trả theo hướng du kích. Từ mô tả này bạn có thể thấy, Tây Âu mặc
dù đã phải trả giá, nhưng không có nghĩa là họ đã đầu hàng. Dưới
sự lãnh đạo mới, lãnh đạo của chiến tranh du kích, nhỏ lẻ, từ chối quy phục
và lấy chiến thuật đêm, phục kích, tấn công đêm quân Tần, trong đó, có cả sử
dụng tên độc. Hàng trăm ngàn người thương vong, sông máu, lính Tần buộc
phải cảnh giác, trong những năm chiến tranh, binh lính không dám cởi áo
giáp, yên ngựa không được bốc dỡ, mũi tên không rời khỏi cung.
Vì Lĩnh Nam địa
hình, núi non hiểm trở, giao thông rất khó khăn, không vận chuyển lương thực giúp
sức miền Nam
kịp thời, ảnh hưởng đến chiến tranh. Vì vậy, nhà Tần đã gửi hàng chục
ngàn binh sĩ theo đường Tây An - Quảng Tây Xing, hướng bắc theo sông
Xiangjiang và phía tây nam theo sông Lệ Giang ổn định của nguồn cung cấp lương
thực. Sau một vài năm chiến đấu, cuối cùng đã đảm bảo nguồn cung cấp. Sau ba
mươi ba năm nhà tần về cơ bản đã
chinh phục được Lĩnh Nam.
Dấu tích cong
lại nằm ở Xingan, Quế Lâm, là các kênh nước thông sông Hưng Yên, Hồ Nam,
kênh Quảng Tây, bây giờ được gọi là "Ling Qu", tổng chiều dài 37 km,
chiều rộng bề mặt của mười mét quy mô lớn đập chính dài 344 mét, cao hơn 200
mét, cấu trúc thuổng miệng, quy mô lớn, quy mô nhỏ, kênh Nam, kênh Bắc, Tianhe
lội, cống nước, Doumen, con đập, đập, cầu cống và các công trình kênh nhân tạo
độc đáo, một biểu tượng cho khả năng xây dựng thủy lợi thời bấy
giờ.
Sau khi tướng Tu
Sui chết, Triệu Đà được cử thay, đem theo 300.000 (một số người nói 500.000)
quân kiểm soát Tây Âu. Về cơ bản, đó là bởi vì vào thời điểm đó chỉ có lực
lượng chính của Tây Âu cũ đã bị đánh bại và địa bàn quân Tần chiến lĩnh chính
là các thành trì, phần lớn các ngọn núi và làng mạc vẫn nằm trong tay
của người dân, và thường tấn công và quấy rối quân đội Tần. Khi đó, Zhao Wei lập
quân đội và rời khỏi Panyu ở phía tây tiến hành kháng chiến. Được gọi
là "Chiến tranh Tần thứ hai", người ta cũng nói rằng đây là sự tiếp
nối của Chiến tranh Tần đầu tiên. Cường độ bi thảm của "Chiến tranh Tần
thứ hai" không kém hơn "Chiến tranh Tần đầu tiên".
Sau một cuộc
"Chiến tranh Tần đầu tiên" khủng khiếp và "Chiến tranh Tần thứ
hai", Tần Thủy Hoàng có thể được cho là đã chinh phục Lingnan, và thành
lập ba quận ở Lingnan: Quận Nam Hải, hầu hết tỉnh Quảng Đông ngày nay; Quận Quế
Lâm, ngày nay ở phía đông bắc của Quảng Tây và một phần nhỏ của miền tây Quảng
Đông, Xiangjun, ngày nay tây nam Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, và bắc trung bộ
Việt Nam, thậm chí đến phía đông Vân Nam và phía nam Quý Châu.
Sau đó, Tây Âu bị
tan rã, hoặc bị giết, chết đói hoặc di cư về phí Nam và Tây Nam . Người dân của Tây Bách Việt,
dưới sự tấn công mạnh mẽ của quân đội nhà Tần, chỉ có thể rút lui về phía nam,
một phần trong số họ bỏ lại phía sau để gia nhập người dân địa phương, và một
số trôi dạt ở nước ngoài. Họ rút lui về miền Nam và chiếm chỗ đứng vững chắc ở
Đông Nam Á với sự giận dữ và hận thù chống lại Quân đội Tần, tái thiết lập một
quận, thiết lập một quốc gia, hoặc tái cơ cấu liên minh. Sự hận thù với
nhà Tần được ghi nhớ trong trái tim họ gọi nhà Tần là “Qin”, “Chin” như
một sự miệt thị, căm ghét. Lập luận chống Tần này đã lan đến các tiểu
lục địa và cả miền Đông Ấn Độ trong sự truyền bá của những câu chuyện hay
lịch sử, được đọc bằng tiếng Hindi và được truyền từ Ấn Độ sang phương Tây. Đây
là điều đã khiến cho cả thế giới sau này gọi Trung Quốc theo các tên có
nguồn gốc từ lịch sử đó.
Bản đồ lưu vực sông Tây Giang, phần lớn lãnh thổ Tây Âu nằm trong
khu vực này