Triệu Vũ Vương
Triệu Vũ Đế
趙武帝
Hay còn gọi là Triệu Đà
Tượng Vũ Đế, phía trước Nhà ga đường sắt Hà Nguyên thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc
Trị
vì 70 năm
Kế
nhiệm Triệu Văn Đế
Tên
húy Triệu Đà (趙佗)
Thụy
hiệu Vũ Hoàng đế (武皇帝)
Sinh 257 TCN huyện Chân
Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山), đời nhà Tần(nay
là huyện Chính Định (正定),
tỉnh Hà Bắc), Trung Quốc
Mất 137 TCN (120 tuổi)
Phiên Ngung (nay
là thành phố Quảng Châu,
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc)
Triệu Vũ đế (chữ Hán:
趙武帝, 257 TCN - 137 TCN), húy Triệu Đà (chữ Hán:
趙佗), tự Bá Uy[1] (chữ Hán:
伯倭), hiệu Nam Hải lão phu (chữ Hán:
南海老夫). Triệu Đà vốn là người Trung Hoa (sau này gọi là người Hán),
quê ở huyện Chân Định (真定),
quận Hằng Sơn (恒山), đời nhà Tần (ngày
nay là huyện Chính Định (正定),
tỉnh Hà Bắc),
miền Bắc Trung Quốc.
Ông là võ tướng
theo lệnh Tần Thuỷ
Hoàng dẫn quân xuống chinh phạt miền nam (khi đó là lãnh thổ
của các bộ tộc Bách Việt).
Ông chiếm được nhiều vùng lãnh thổ (nay là Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc
Việt Nam )
nhưng nhà Tần ở
Trung Hoa đã diệt vong. Nhận thấy triều đình trung ương đã sụp đổ, Triệu Đà bèn
tách ra cát cứ, xưng Đế và lập nên nước Nam Việt và cai trị
nước Nam Việt suốt giai đoạn 207-137 TCN. Sau khi nhà Hán đã làm chủ
Trung Hoa, khi về già, Triệu Đà đã quyết định bỏ việc xưng Đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn
xưng Hoàng Đế ở trong Nam Việt). Triệu Đà viết
thư nhờ Lục Giả gửi
cho vua Hán, trong thư ông đã công nhận rằng mình là người Trung
Hoa, nhà Triệu là chư hầu phục
vụ cho nhà Hán,
thay mặt vua Hán để cai trị dân "Man Di" phía Nam (chỉ
người Âu Việt, Lạc Việt thời đó).
Tiểu sử
Triệu Đà vốn người
huyện Chân Định (真定),
quận Hằng Sơn (恒山), đời nhà Tần (ngày
nay là huyện Chính Định (正定),
tỉnh Hà Bắc), Trung Quốc, là
người di cư xuống miền nam mới khai hoá đời nhà Tần, là người lập nên nước Nam Việt.
Triệu Đà là vua
thứ nhất của nước Nam Việt,
trị vì khoảng từ năm 207 trước Công Nguyên đến năm 137 trước Công Nguyên, xưng
là Nam Việt Vũ Vương hay là Nam Việt Vũ Đế.
Năm mất của Triệu
Đà được các nguồn sử liệu thống nhất là 137 TCN. Về năm sinh của Triệu Đà, các
nguồn tài liệu đề cập khác nhau. Đại Việt sử
ký toàn thư của Việt Nam chép rằng
ông sinh năm 257 TCN,
tức là thọ 121 tuổi.
Các nhà nghiên cứu
hiện nay lại căn cứ theo một dòng trong Hán thư của Ban Cố cho biết ông
tham gia nam chinh từ năm 20 tuổi [cần dẫn nguồn]
và đó là thời điểm 13 năm trước khi Lưu Bang thành
lập nhà Hán (202
TCN), tức là ông sinh năm 235 TCN và
tham gia nam chinh từ năm 215 TCN,
năm 214 TCN được Tần Thủy Hoàng phong huyện lệnh Long Xuyên. Theo giả thuyết này,
Triệu Đà thọ 99 tuổi.
Sự nghiệp
Bình định đất
Lĩnh Nam
Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm
được của các nhóm tộc Bách Việt ở
phía Nam sông Dương Tửsau
năm 210 TCN.
Bản đồ vùng đất Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên)
Sau khi thống nhất
7 nước, Tần Thuỷ
Hoàng bắt tay bình định vùng đất Bách Việt ở Lĩnh Nam.
Năm 218 trước Công
Nguyên, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư (屠睢)
làm chủ tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Khi Đồ Thư chiếm
được vùng đất Lĩnh Nam, Tần Thủy
Hoàng lập nên 3 quận là Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (đông
bắc Quảng Tây)
và Tượng quận. Đồ Thư chiếm
được nhiều đất đai nhưng cuối cùng bị tử trận.
Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao (壬嚣) cùng Triệu Đà đến
cai trị vùng Lĩnh Nam. Nhâm Ngao làm Quận úy
quận Nam Hải. Nam Hải gồm
4 huyện Bác La, Long Xuyên, Phiên Ngung và Yết Dương;
trong đó huyện Long Xuyên có vị trí quan trọng nhất về địa lý và quân sự, được
giao dưới quyền Triệu Đà làm Huyện lệnh.
Giếng Việt Vương ở huyện Long Xuyên, TP. Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, tương truyền được đào bởi Triệu Đà khi ông còn làm Huyện lệnh Long Xuyên
Sau khi tới thủ
phủ Long Xuyên nhậm chức, Triệu Đà áp dụng chính sách "hoà tập Bách
Việt" đồng thời xin Tần Thủy Hoàng di dân 50 vạn người từ Trung Nguyên đến vùng
này, tăng cường chính sách "Hoa Việt dung hợp" (hòa lẫn người Hoa Hạ và người Lĩnh
Nam).
Ly khai nhà
Tần
Tần Thủy Hoàng chết
(210 TCN), Tần Nhị Thế nối
ngôi, khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ
ra năm 209 TCN,
rồi tiếp theo là chiến tranh
Hán-Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ (từ
năm 206 TCN), Trung Nguyên rơi
vào cảnh rối ren loạn lạc.
Tượng Triệu Đà, phía trước Nhà ga đường sắt Hà Nguyên
Năm 208 TCN, Quận uý Nam Hải
là Nhâm Ngao bị
bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà đang tạm thời làm Huyện lệnh Long
Xuyên đến, dặn dò đại ý rằng:Vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận
lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên (tức khu
vực trung ương Trung Quốc) đánh xuống, và đồng thời chính thức bổ nhiệm Triệu Đà
nối quyền cai trị quận Nam Hải.
Không lâu, Nhâm
Ngao chết, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân các cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng
chống quân đội Trung nguyên xâm phạm, và nhân dịp đó, giết hết những quan lại nhà Tần bổ
nhiệm ở Lĩnh Nam,
cho tay chân của mình thay vào những chức vụ đó.
Chinh phục Âu
Lạc, lên ngôi vua nước Nam Việt
Bản đồ nước Nam Việt
Sử sách ghi chép không thống nhất về
việc Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc,
cả về cách đánh lẫn thời gian và địa lý.
Sử ký Tư Mã
Thiên ghi chép vắn tắt rằng Triệu Đà dùng tài ngoại giao và đút
lót mua chuộc các thủ lĩnh Tây Âu Lạc
(phía Tây nước Âu Lạc cũ)
mà thu phục vùng này vào thời điểm "sau khi Lã hậu chết"
(năm 180 TCN).
Các sách giáo khoa tại Việt Nam
hiện nay đều thống nhất lấy thời
điểm ước lệ này trong Sử ký và lấy năm ngay sau 180 TCN là 179 TCN.
Lần xâm phạm đầu tiên, Triệu Đà đóng
quân ở núi Tiên Du (thuộc
tỉnh Bắc Ninh ngày
nay) giao chiến với An Dương
Vương bị thất bại và bỏ chạy. Triệu Đà lập mưu gả con trai là Trọng Thủy cho
con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để
do thám bí mật về bố phòng quân sự của Âu Lạc để tiếp tục tiến hành âm mưu xâm
lược.
Sau khi kết thông gia, An Dương Vương
lập ranh giới từ sông Bình Giang (nay là sông Đuống)
trở lên phía Bắc thuộc quyền cai trị của Triệu Đà, trở về phía Nam thuộc quyền
cai trị của An Dương
Vương.
Năm 208 TCN, Triệu Đà đánh
thắng Âu Lạc của An Dương
Vương, sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải,
lập nước Nam Việt.
Theo truyền thuyết, sau khi nghe tin Mỵ Châu bị An Dương
Vương giết, Trọng Thủy nhảy
xuống giếng tự vẫn để trọn tình với vợ là Mỵ Châu.
Năm 207 TCN, Triệu Đà cất quân
đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng quận;
tự xưng "Nam Việt Vũ Vương".
Nước Nam Việt bấy giờ, bao
gồm từ núi Nam Lĩnh,
phía tây đến Dạ Lang,
phía nam đến dãy Hoành Sơn,
phía đông đến Mân Việt.
Thủ đô nước Nam Việt lúc ấy là thành Phiên Ngung (thành
phố Quảng Châu ngày
nay).
Một số tài liệu nghiên cứu ngày nay cho
rằng vùng đất miền Bắc Việt
Nam bây giờ nằm trong quận Tượng 象郡 của nước Nam Việt lúc đó.
Thần phục nhà Hán
Năm 179 TCN, vua Hán sai người tu sửa mồ mả cha ông
Triệu Đà, cắt đặt hàng năm đúng ngày thờ cúng, ban thưởng chức vụ và
của cải cho bà con Triệu Đà còn ở trong đất Hán. Nghe thừa tướng Trần Bình tiến
cử, Lưu Hằng sai Lục Giả,
người từng được Hán Cao Tổ sai sứ đi Nam Việt nhiều lần, làm chức Thái Trung
Đại Phu, lại đi thuyết phục Triệu Đà quy Hán. Lục Giả đến Nam Việt, lại trổ tài
thuyết phục Triệu Đà. Triệu Đà nghe thuyết phục phải trái hơn thiệt, quyết định
bỏ danh hiệu Đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn tiếm hiệu xưng Hoàng Đế ở trong
nước Nam Việt).
Nhân đó, Triệu Đà viết
thư nhờ Lục Giả gửi
cho vua Hán, rằng:
“ Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà,
mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ
ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên
ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc
nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng
bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho
con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không sắm
lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai quan Nội sử (內使) là Phan (潘), quan Trung úy (中尉) là Cao (高), quan Ngự sử (御史) là Bình (平), ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều không thấy trở
về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng
đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong không được phấn
chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô". Vì
vậy mới đổi xưng hiệu là Đế, để tự làm Đế nước mình, không dám làm điều gì hại
đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt,
khiến cho việc sai người đi sứ không thông. Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa
Vương gièm pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49
năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên
chiếu, ăn không biết ngon, mắt không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông
trống, chỉ vì không được làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng
thương đến, được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết
xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng Đế nữa. Kính cẩn
sai sứ giả dâng một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tê,
500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo
muội liều chết, hai lạy dâng lên Hoàng đế bệ hạ.”
Kể từ đó đến đời Hán Cảnh Đế,
Triệu Đà một mực xưng thần, hàng năm cứ mùa Xuân và mùa Thu, đều đưa đoàn sứ
đến Trường An triều
cống hoàng đế nhà Hán, chịu mệnh lệnh làm chư hầu (trên danh nghĩa) của nhà
Hán. Năm 137 TCN, Nam Việt Vương Triệu Đà qua đời, sống được ước chừng hơn trăm
tuổi (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư là 121 tuổi), chôn ở Phiên Ngung (tức
thành phố Quảng Châu ngày nay).
Triệu Đà chết đi, con cháu tiếp tục
được 4 đời vua Nam Việt, cho đến năm 111 trước Công Nguyên mới bị nhà Hán chiếm.
Ảnh
hưởng lịch sử
Triệu Đà vốn là quan võ của nhà Tần,
rồi được Tần Thủy
Hoàng bổ nhiệm làm Huyện lệnh huyện Long Xuyên trong quận Nam Hải mà
Nhâm Ngao làm Quận uý. Triệu Đà lập nên nước Nam Việt, độc lập với nhà Tần,
cai trị nước Nam Việt 67
năm, từ năm 203 trước Công nguyên tới năm 137 trước Công nguyên, rồi truyền
ngôi cho cháu là Triệu Muội.
Triệu Đà thực thi chính sách "hoà tập Bách Việt" nhằm thống nhất các
bộ tộc Bách Việt và
chính sách "Hoa - Việt dung hợp" nhằm đồng hoá dân người Hoa và Lĩnh Nam tại lãnh thổ
nước Nam Việt.
Theo khảo sát dân số thì cuối thời Nam
Việt, cả nước này có 1,3 triệu dân, trong đó có khoảng 100 ngàn người Hoa di
cư từ phía Bắc. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng người Hoa nắm giữ hầu hết chức vụ
chủ chốt trong triều đình Nam Việt. Về sau triều đình có tuyển thêm người bản
xứ như Lữ Gia, nhưng con số này vẫn rất ít, và cũng chỉ tuyển những người tinh
thông chữ Hoa, biết nói tiếng Hoa (tức là đã "Hán hóa") mà thôi.
Như vậy cho thấy nhà Triệu vẫn
coi mình là triều đại của người Hoa, không coi người Việt là ngang hàng với
người Hoa.
Tranh
luận về vai trò của nhà Triệu và nước Nam Việt
Nhà Triệu là một triều đại, hay một
giai đoạn lịch sử gây nhiều tranh luận cho giới nghiên cứu sử học Việt Nam . Sử học
Việt Nam
từ trước đến nay đều có hai quan điểm trái ngược nhau:
Quan điểm cho rằng Triệu Vũ Đế đánh
bại An Dương
Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ nước Việt, nhà
Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ
Bắc thuộc.
Trái lại cũng có quan điểm cho
rằng Triệu Đà là người phương Bắc, quê quán ở Trung Nguyên (nay là
tỉnh Hà Bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà ở
Trung Quốc) theo lệnh Tần Thuỷ
Hoàng đem di dân người Hoa Hạ (sau này gọi
là người Hán)
xuống vùng Lĩnh Nam (là
nơi cư trú của các bộ tộc Bách Việt)
và được làm Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải mới khai hoá, khi nhà Tần mất
thì mới tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu
Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Xoay quanh vấn đề Triệu Đà và nhà Triệu,
mấu chốt là thế giới quan nhìn nhận của nhà sử học. Những người đề cao thuyết Thiên mệnh của Nho giáo (cho rằng
ngôi vị là do "Trời định", ai xưng đế ở vùng đất nào thì nghiễm nhiên
được coi là vua, nắm giữ "Thiên Mệnh" của vùng đất đó, bất kể xuất
thân thuộc dân tộc nào) thì sẽ nhìn nhận Triệu Đà là vua Việt Nam, đây là cách
nhìn của nhiều sử gia Việt Nam thời phong kiến.
Ngược lại, những nhà sử học có tư duy biện chứng về
quốc gia - dân tộc, coi trọng nguồn gốc xuất thân, tính dân tộc của
người cầm đầu chính quyền, bản chất của bộ máy quan lại nước Nam Việt (hầu hết
quan lại Nam Việt là người Trung
Hoa, còn người Việt là dân bị trị) và không công nhận thuyết
"Thiên Mệnh" thì sẽ coi Triệu Đà là triều đại xâm chiếm của phương
Bắc, đây là cách nhìn của các sử gia thời hiện đại.
Một quan điểm khác cho rằng, dù
là người Hán, bộ máy, hành chính hoạt động theo mô hình người Hán,
xong ít nhiều Triệu Đà và các đời vua nối tiếp ông đều chấp nhận
ảnh hưởng của người Âu Việt, do muốn nhận được sự ủng hộ của số
đông người dân để cung cấp lực lượng chống lại nhà Hán nên nhà Triệu
không thi hành những chính sách hà khắc với dân Tây Âu, không cưỡng ép
đồng hóa Hán tộc, và dần chấp nhận địa vị cao hơn trong bộ máy cho
người Việt, bằng chứng là trong suốt thời nhà Triệu không có cuộc
khởi nghĩa, đòi độc lập của các cư dân Bách Việt, chỉ đến khi Nhà
Hán đánh bại nhà Triệu thi hành chính sách đồng hóa triệt để lĩnh
nam thì các cuộc khởi nghĩa mới bùng nổ và âm ỷ cháy suốt nghìn
năm sau đó.
Những địa điểm gắn với Triệu Đà
Thành phố Thạch Gia
Trang (石家庄) ở
tỉnh Hà Bắc,
Trung Quốc: huyện lỵ Chính Định ở
góc nam Thạch Gia Trang là nơi sinh của Triệu Đà, thời nhà Tần có
tên là huyện Chân Định quận Hằng Sơn. Thị trấn Triệu Lăng Phu (赵陵铺镇) ở góc nam quận Tân Hoa (新华区) của thành phố Thạch Gia Trang có mộ tổ Triệu Đà
do Hán Vũ Đế đời Tây Hán xây để vỗ về
Triệu Đà, ngày nay vẫn còn bia mộ.
Huyện Long Xuyên (龙川) ở tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc: thời nhà Tần là
huyện Long Xuyên quận Nam Hải (南海), nơi Triệu Đà làm Huyện lệnh 6 năm sau khi bình định
đất Lĩnh Nam.
Nguyên trị sở huyện này được đặt tên là Thị trấn Đà Thành (佗城镇) hay còn gọi là "Thành cũ Triệu Đà" (赵佗故城) để kỷ niệm Triệu Đà.
Thành phố Quảng Châu ở
tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc: thời nhà Tần là
huyện Phiên Ngung (番禺), thủ phủ quận Nam Hải,
nơi Triệu Đà làm Quận uý 4 năm. Sau khi nhà Tần diệt
vong, Triệu Đà vẫn lấy Phiên Ngung làm
thủ phủ, lập nên nước Nam Việt. Phiên Ngungcũng
là nơi chôn cất Triệu Đà.
Tên đường phố, địa danh
Tên của Triệu Đà được đặt cho một đường
phố nhỏ tại địa bàn khu phố 2, phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ
Chí Minh, Việt Nam.
Đền thờ
Tượng thờ Triệu Vũ Đế (tức
Triệu Đà) đặt tại đền Đồng Xâm,
xã Hồng Thái,
huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình.
Nhiều nơi ở miền Bắc Việt
Nam và miền Nam
Trung Quốc có đền miếu thờ cúng ông:
Đình thờ Thành hoàng Triệu
Đà ở xã Xuân Quan,
huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Xưa kia đây là
nơi Triệu Đà cho xây dựng điện Long Hưng.
Đình thờ cha mẹ và đền thờ của Triệu Đà
ở xã Quang Minh, huyện Thanh Oai,
TP Hà nội.
Đền Đồng Xâm ở
xã Hồng Thái,
huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình, Việt Nam thờ Triệu Đà
và phu nhân Trình thị.
Nhiều nơi xung quanh khu vực Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội)
như các làng Văn Tinh, Lực Canh (thuộc xã Xuân Canh), Thạc Quả
(thuộc xã Dục Tú)
thờ Triệu Đà. Truyền thuyết dân gian vùng ven thành Cổ Loa kể
lại khi đi đánh An Dương
Vương, Triệu Đà đã cho thuyền ngược sông Hồng và
cho đóng quân ở bến sông, nay là đoạn cuối làng Dâu (hay có tên khác là làng
Lực Canh) và đầu làng Văn Tinh, nơi rất gần với ngã ba Dâu (nơi hợp lưu
của sông Đuống và sông Hồng).
Tương truyền, làng Văn Tinh là nơi Triệu Đà đóng đại bản doanh còn dân làng Lực
Canh chỉ làm nhiệm vụ như cắt cỏ ngựa, khuân vác, phục vụ cho quân đội. Vì thế,
đình Văn Tinh được coi là nơi thờ chính còn các nơi khác chỉ là nơi thờ vọng.
Lễ hội làng Văn Tinh được tổ chức từ ngày mùng 6 đến mùng 8 tháng 3 hàng năm để
tưởng nhớ Triệu Đà. Ngày 7 tháng 3, nhân dân làng Lực Canh rước tượng Trọng Thủy đến
Văn Tinh với ý nghĩa con về thăm cha.
Miếu Nam Việt
Vương ở thị trấn Đà Thành, huyện Long Xuyên,
địa cấp thị Hà Nguyên,
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc thờ Thành hoàng Triệu
Đà. Miếu được xây dựng từ thời nhà Thanh.
Niên đại và tư liệu
Về thời gian thành lập nước Nam Việt
Về thời gian chinh phục Âu Lạc
Về cái chết của Trọng Thuỷ