VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM VÀ DẤU ẤN CỦA NGƯỜI TÀY


“Văn Miếu Quốc Tử Giám và những dấu ấn người Tày” (PL&XH) - Văn Miếu Quốc Tử Giám, trường ĐH đầu tiên của Việt Nam. Một trong những biểu tượng văn hóa tiêu biểu và độc đáo bậc nhất của Thăng Long – Hà Nội trong suốt chiều dài lịch sử. Chứa đựng bên trong công trình kiến trúc này vẫn có dấu ấn đặc biệt của người Tày.
Vị Tế tửu người Tày và dòng họ khoa bảng. Văn Miếu Quốc Tử Giám là biểu tượng mở đầu cho thời kỳ nho học thịnh trị ở Việt Nam. Người đứng đầu của Quốc Tử Giám gọi là Tế tửu hoặc Tư Nghiệp, những người này thường là những bậc túc nho có đạo đức trong sáng được xã hội kính trọng như: Chu Văn An, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn… trong đó không thể không kể đến một vị túc nho có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám, đó là Thân Nhân Trung. Thế nhưng, ít ai biết được nguồn gốc độc đáo của ông cũng như dòng họ khoa bảng của vị tiến sĩ họ Thân này.
Dòng họ Thân của ông bắt nguồn từ dòng họ Giáp của dân tộc Tày, nhiều đời làm thủ lĩnh vùng Động Giáp thuộc châu Lạng tức châu Quang Lang (nay ở Lạng Sơn và Bắc Giang). Dòng họ Giáp đã kết thân và có công giúp đỡ cho nhiều đời vua Lý nên được đổi sang họ Thân. Thân Nhân Trung (1419 - 1499), tự Hậu Phủ , người làng Yên Ninh, tục gọi là làng Nếnh, phủ Bắc Giang (nay thuộc thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Thân Nhân Trung đứng địa vị Phó đô Nguyên súy Tao đàn Nhị thập bát Tú của vua Lê Thánh Tông. Ông từng đỗ tiến sĩ, làm quan nhà Hậu Lê dưới 2 đời vua là: Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, từng giữ các chức Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, kiêm Thượng thư bộ Lễ, trưởng Hàn lâm viện sự, Thượng thư bộ Lại, Nhập nội Phụ chính.
Thân Nhân Trung cũng là người mở đầu cho dòng họ khoa bảng. Ba đời liên tiếp với 4 vị đỗ tiến sĩ và đều làm quan dưới thời vua Lê Thánh Tông. Con trai đầu của ông là Thân Nhân Tín, 52 tuổi đỗ tiến sĩ. Con trai thứ của ông là Thân Nhân Vũ (còn gọi là Thân Tông Vũ), 38 tuổi đỗ tiến sĩ. Cháu nội ông là Thân Cảnh Vân, 25 tuổi đỗ thám hoa. Sang đến thời Nguyễn, gia tộc họ Thân cũng có 10 vị cử nhân và 1 vị tiến sĩ. Văn Miếu Quốc Tử Giám – trường ĐH đầu tiên của Việt Nam. Dấu ấn người Tày còn sót lại ở Văn Miếu Trong thời kỳ Thân Nhân Trung giữ chức Tế tửu ở Quốc Tử Giám, năm Hồng Đức thứ 15 (1484). Ông được vua Lê Thánh Tông giao việc soạn các bài kí để khắc vào bia tiến sĩ ở Văn Miếu. Thân Nhân Trung chính là người trực tiếp soạn bài văn cho bia tiến sĩ đầu tiên năm Nhâm Tuất 1442. Bài văn đó sau này đã trở thành kim chỉ nam cho việc sử dụng nhân tài ở Việt Nam: "...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...".
Hiện nay, những câu nói của ông được khắc trang trọng trong Văn Miếu và vẫn giữ nguyên giá trị trong hệ thống giáo dục nước nhà, bởi đã toát lên truyền thống trọng hiền tài của nước Nam. Một dấu ấn rất đặc biệt nữa đó là những con rùa đá cõng trên mình những tấm bia đá ở Văn Miếu. Hiện, ở Văn Miếu có 82 tấm bia đá khắc các bài văn bia đề danh tiến sĩ nho học Việt Nam của các khoa thi Đình thời nhà Hậu Lê và nhà Mạc (1442-1779), các tấm văn bia này đã được công nhận là di sản tư liệu thế giới. Điều đặc biệt là, con rùa ở Văn Miếu được tạc là con rùa cạn còn ẩn chứa nhiều bí ẩn. Theo nhà nghiên cứu Dương Thuấn, rất có thể trong quá trình xây dựng Văn Miếu, Thân Nhân Trung người được nhà vua rất tin tưởng giao soạn thảo văn bia đã chọn biểu tượng con rùa cho Văn Miếu. Vì đối với người Tày, rùa là biểu tượng cho tầng lớp trí thức tinh hoa nhất, vì thế con rùa ở Văn Miếu rất có khả năng là dấu ấn của vị trí thức người Tày!?
Rạng danh truyền thống hiếu học Với giá trị lịch sử to lớn và giàu ý nghĩa, Văn Miếu Quốc Tử Giám hàng năm được chọn là địa điểm diễn ra các sự kiện văn hóa nổi bật nhằm tôn vinh truyền thống hiếu học của dân tộc. Cứ đến hẹn lại lên, ngày rằm tháng Giêng âm lịch người dân lại hội tụ về Văn Miếu để tham gia lễ hội thơ. Đây là địa điểm Nhà nước tổ chức trao các học hàm, học vị: Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ… cho những trí thức mới. Trong các kỳ thi ĐH, CĐ các thủ khoa đều được tới Văn Miếu để nhận bằng khen. Chính điều này đã góp phần to lớn vào việc thúc đẩy truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Vì vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, không thời nào là không có nhân tài. Một niềm tự hào to lớn đối với Việt Nam.
Với những giá trị quí báu đó, Văn Miếu Quốc Tử Giám thực sự trở thành biểu tượng không chỉ riêng của Thăng Long – Hà Nội mà là của cả dân tộc Việt Nam. Hàng năm, Văn Miếu thu hút hàng triệu lượt khách du lịch, trong đó nhiều đồng bào dân tộc thiểu số mỗi dịp ghé thăm Hà Nội. Hàng năm có tới hơn 100 đoàn là người dân tộc thiểu số tới tham quan. Em Sùng A Sáng (người Mông) học sinh lớp 7, ở tỉnh Yên Bái cho biết: “Đây là lần đầu tiên em xuống Hà Nội và đến Văn Miếu Quốc Tử Giám. Em rất thích nơi đây vì được nghe mọi người kể cho nghe về truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam. Trong các vị tiến sĩ ở Văn Miếu có nhiều bậc đại khoa là người dân tộc thiểu số”.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa to lớn, Văn Miếu Quốc Tử Giám xứng đáng với tầm vóc, biểu tượng của Thủ đô nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Xuân Thắng - Khởi Thủy

Popular Posts

Cuộc đời và sự nghiệp Thượng tướng Chu Văn Tấn

SỰ TÍCH TẠI SAO VỊT KHÔNG BIẾT ẤP TRỨNG

NÓI XIN CHÀO THEO CÁCH CỦA NGƯỜI TÀY - NÙNG

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 50

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 25

Popular Posts

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 48

NÓI XIN CHÀO THEO CÁCH CỦA NGƯỜI TÀY - NÙNG

SỰ TÍCH TẠI SAO VỊT KHÔNG BIẾT ẤP TRỨNG

CÁC TỪ CHỈ VỊ TRÍ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TRONG TIẾNG TÀY - NÙNG

SLON PHUỐI TÀY-NÙNG. BÀI 49

Popular Posts

CẨU CHỦA CHENG VÙA (CHÍN CHÚA TRANH VUA)

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 1

Các thì trong tiếng Tày - Nùng

VẤN ĐỀ CƯƠNG VỰC NƯỚC ÂU LẠC

VẤN ĐỀ ÂU VIỆT VÀ LẠC VIỆT

TRUYỀN THUYẾT TÀY - NÙNG: 3 TRUYỆN

MỘT GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÂN CHIA CÁC DÂN TỘC TÀY, NÙNG

Người truyền lệnh bằng tiếng Tày trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 42