PHỤ TỪ CHỈ THỜI GIAN
Để chỉ thời của hành động
(hay còn gọi là các thì), tiếng Tày - Nùng dùng các phụ từ có ý nghĩa chỉ
thời đi kèm theo động từ hoặc để ở cuối câu.
Để diễn tả hành động đã xảy ra
+ Sử dụng dá để ở cuối câu,
biểu thị cả cụm đằng trước là việc đã xảy ra. VD: Noọng chin ngài dá: Em ăn
cơm trưa rồi.
+ Đối với câu hỏi để kéng ở cuối câu hỏi, ý là đã hay chưa.
VD: Noọng kin ngài kéng? Em đã ăn cơm trưa chưa
+ náo/ngám/chắng đứng trước động từ thể hiện hành động vừa mới xảy ra, vừa
mới kết thúc ở hiện tại. VD: Chài ngám kin: Anh vừa ăn xong.
+ đế, đế đề đặt trước động từ thể hiện sự việc
đã xảy ra và kết thúc trong quá khứ. VD: Câu đế dú Hải
Phòng: Tôi đã sống ở Hải Phòng (hiện tại thì
không còn ở đó nữa)
Để
diễn tả hành động đang xảy ra
+ Sử dụng đang slí đặt trước động từ, chỉ hành động đang diễn ra. VD: Kh’oi đang slí chin ngài. (Đang ăn cơm trưa).
Tuy nhiên đang
slí thường sử dụng
trong văn viết còn trong nói năng, người ta lược bỏ slí, ví dụ: đang
chin ngài = đang ăn cơm trưa.
Diễn tả hành động trong tương lai
+
C’oi đặt trước động từ, biểu thị thời tương
lai. VD: Kin thuổn, kh’oi c’oi pây: ăn xong, tôi sẽ đi
Tuy nhiên c’oi cũng
thường sử dụng trong văn viết, còn trong giao tiếp, thường thấy dùng xẹ biểu thị thời tương lai, ví dụ: Câu xẹ
pây slam: Tôi sẽ đi hỏi.
+ Chắng cũng biểu thị thời tương lai, nhưng có ý
chỉ sự việc tiếp theo một sự việc khác có quan hệ nhân quả, ví dụ: Chin ím chắng
mì lèng: Ăn no mới khoẻ. Mì
chèn chắng hết rườn:
có tiền sẽ xây nhà