Nùng Trí Cao
là người Tráng (Thổ) ở châu Quảng Nguyên
(ngày nay là tỉnh Cao Bằng), và là con của thủ lĩnh địa phương Nùng Tồn Phúc và
bà A Nùng. Châu Quảng Nguyên là vùng đất mà thời đó cả Nhà Tống và Nhà Lý
đều tuyên bố chủ quyền, nhưng tù trưởng ở vùng này chủ yếu cống nạp cho phía Đại
Việt. Khi đó có Nùng Tồn Phúc làm tri châu Quảng Do, em là
Tồn Nhai làm tri châu Vạn Nhai, em vợ là Nùng Đương Đạo làm tri
châu Vũ Lịch. Tồn Phúc dùng binh tiến đánh, giết Tồn Nhai và Đương Đạo, rồi
khởi binh tấn công Đại Tống và Đại Việt,
tự xưng hiệu Trường Sinh hoàng đế, lập vợ là A Nùng làm "Minh Đức Hoàng
hậu". Lý Thái Tông tức giận đem quân đánh, giết
Tồn Phúc và con là Trí Thông.
Theo “Tục tư trị thông giám” nhà Tống thì
Vợ Tồn Phúc là A Nùng cải giá với một thương nhân, sinh con trai đặt tên là Trí Cao.
Năm lên 13 tuổi, Trí Cao giết cha dượng của mình, nói rằng: "Thiên hạ
làm gì có ai hai cha bao giờ", rồi giả xưng là con của Tồn Phúc, đổi sang
họ Nùng. Tuy nhiên đây là một chi tiết tuyên truyền bịa đặt của nhà Tống, theo
ghi nhận của Tráng tộc Nùng Trí Cao được sự nuôi dưỡng của A Nùng
luôn nung nấu ý chí phục quốc của cha.
Đại Lịch
Năm 1041, Nùng Trí
Cao cùng mẹ là A Nùng tập hợp lực lượng trở về lấy châu Thảng Do (gần châu
Quảng Nguyên) lập ra một nước gọi là nước Đại Lịch (大曆).
Lý Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được đem về Thăng Long.
Tuy nhiên, Nùng Trí Cao nhịn nhục đã thuyết phục được vua Lý không
giết, tin sự thuần phục của Trí Cao đã phong cho làm Quảng Nguyên mục.
Sau đó Nùng Trí Cao vào triều yết kiến, được vua Thái Tông gia phong cho tước
Thái bảo.
Năm 1048, Trí Cao
lại nổi dậy, chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng).
Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao lại đầu hàng. Tuy nhiên, theo
giai thoại của người Tày, khi quân Lý tới nơi, ông nói với Quách Thịnh Dật đừng
tiến quân, ông sẽ không gây hấn với nhà Lý nữa
mà sẽ tiến sang phương Bắc.
Đại Nam
Năm 1052, Nùng Trí
Cao nổi dậy lần nữa, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại
Nam .
Để tăng thêm thanh thế, ông xin phụ thuộc vào Trung Quốc,
hoàng đế Nhân Tông nhà Tống không
cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh Trung Quốc. Được sự hậu thuẫn của các thủ
lĩnh người Thái - Tày ở Quảng Tây là Nùng Trí Trung, Nùng Kiến Hậu, thanh thế
Trí Cao càng thêm lớn mạnh. Ông đánh lấy Ung châu, rồi sau đó chiếm cả thảy
được 8 châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây,
bao gồm: Hoành châu, Quý châu, Cung châu, Tầm châu, Đằng châu, Ngô châu, Khang
châu, Đoan châu.
Nhà Tống lo sợ. Lý Thái Tông dâng biểu sang Trung Quốc xin
mang quân phối hợp đánh Nùng Trí Cao. Khi quân Đại Cồ Việt sắp vào biên giới,
tướng nhà Tống là Địch Thanh can
Tống Nhân Tông rằng: "Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không
khống chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó
mà nổi loạn, thì làm thế nào?" Vua Tống nghe lời bèn sai các tướng Dư
Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí Cao và sai sứ nói với Lý Thái Tông rằng không
cần quân Lý giúp. Dư Tĩnh đánh mãi không được, nhà Tống lấy làm lo.
Nhân khi Trí Cao
dâng biểu xin lĩnh chức Tiết độ sứ Ung châu và Quý châu, vua nhà Tống đã toan
thuận cho, Địch Thanh lại can không nên chấp thuận và xin đem quân đi đánh.
Đầu năm 1053, Địch Thanh ra
hợp quân với Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân Châu (Liễu Châu tỉnh Quảng Tây) rồi
hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với Trí Cao. Bấy giờ có quan Kiềm
hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch
Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện về
báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không
phòng giữ. Địch Thanh đem quân đến cửa Côn Lôn (gần phủ Nam Ninh)
đánh Nùng Trí Cao. Lúc đang đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả
hữu áp lại, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng dưới quyền là Hoàng Sư Mật 57 người
tử trận. Quân Tống đuổi theo giết hơn 2.200 quân của Trí Cao. Ông đốt thành bỏ
chạy.
Tháng 10 năm 1053,
Trí Cao sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu Đại Cồ Việt. Lý Thái Tông sai chỉ huy sứ Vũ Nhị
đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch
Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước Đại Lý.
Quân Lý rút về.
Năm 1055, thời vua Lý Thánh Tông ở Đại Việt, đô giám nhà Tống là Tiêu Chú lại theo đường Đặc Ma (Vân Nam)
đánh úp, bắt được mẹ Trí Cao là A Nùng, em Trí Cao là Trí Quang, con là Kế
Phong. Quân Tống lại mộ những người cảm tử vào đất Đại Lý để lùng tìm Trí Cao.
Quân cảm tử chưa
tới thì người nước Đại Lý ngại gây hấn với nhà Tống đã bắt
Nùng Trí Cao chém chết, mang đầu đem nộp nhà Tống. Nhà Tống giết luôn gia quyến
của Trí Cao.
Tục thờ Nùng Trí Cao
Hiện nay còn di
tích thành Nà Lữ, nơi ông đóng quân, ở gần thị xã Cao Bằng. Đền Khâu
Sầm (Kỳ Sầm) đại vương thờ Nùng Trí Cao vẫn còn ở Cao Bằng,
lễ hội đền Khâu Sầm vẫn được tổ
chức hằng năm vào ngày 10 tháng giêng. Đền Phja Đeng thuộc xã Cường Lợi, huyện
Na Rì, tỉnh Bắc Kạn là di tích thờ Nùng Trí Cao sau thờ thêm Đinh
Tiên Hoàng theo sự di chuyển lên của các quan lại Đại Việt. Tại Trung
Quốc, thời cách mạng văn hóa tục thờ Nùng Trí Cao bị ngăn cản ở
một mức độ nhất định, tuy nhiên gần đây tục thờ này đang khôi phục,
cũng như cách nhìn nhận về Nùng Trí Cao của người Hán và chính
quyền đã thay đổi đáng kể, cộng đồng Zhuang vẫn nhìn nhận ông như
một người anh hùng dân tộc.