THÀNH BẢN PHỦ

Thành Bản Phủ (Cao Bằng)


Thành Bản Phủ nằm trên một vùng rộng lớn bao quanh là sông nước và đồng ruộng thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

Theo truyền thuyết và sử sách, đây không phải thành quân sự, mà là nơi thiết triều của Vương phủ thời Thục Chế-Thục Phánthời Mạc. Tuy nhiên, cho đến nay chưa từng tìm được những hiện vật thời Thục Chế. Qua nghiên cứu và xác định niên đại những di vật nằm trong địa tầng, phần lớn các hiện vật thu được cho thấy thành này được xây dựng từ thời Mạc.

Truyền thuyết nước NamCương

Năm 1963, một tư liệu mới về Thục Phánđược công bố. Đó là truyền thuyết "Cẩu chủa cheng vùa" (chín chúa tranh vua) của người TàyCao Bằng.

Vùng đất Cao Bình xưa (nay thuộc địa phận tỉnh Cao Bằng) nằm dọc theo hai bên bờ của sông Bằng Giang, nơi trung tâm của bồn địa Hoà An. Theo truyền thuyết, đây vốn là kinh đô của nước Nam Cương thời Thục Phán, khi ấy gọi là Nam Bình. Đó là nơi Thục Chế (cha đẻ của Thục Phán) đã từng sinh sống, đắp đất xây thành luỹ để phòng thủ, bảo vệ dân làng trước giặc ngoại xâm. Thành Bản Phủ làm vương phủ, xây dựng vào năm 214 TCN.

Theo truyền thuyết được ông Nguyễn Đức Hạnh tại Cao Bằng kể lại nguyên văn:
“ "Nam Cương gồm 10 xứ mường (9 mường và 1 mường trung tâm). Vào giai đoạn trước Công nguyên, Thục Chế xưng là An Trị Vương, đóng đô ở Nam Bình, làm vua được 60 năm thì mất ở tuổi 95. Lúc này người con là Thục Phán mới tròn 10 tuổi. Cháu Thục ChếThục Mô giúp Thục Phán nhiếp chính. Thục Phán còn trẻ, Thục Mô lộng quyền. 9 chúa mường không phục kéo quân về bắt Thục Phán chia nhỏ đất ra cho các chúa cai quản và đòi nhường ngôi "vua". Thục Phán tuy ít tuổi, nhưng rất thông minh, đã bày ra những cuộc đua sức, đua tài và giao hẹn ai thắng cuộc sẽ được nhường ngôi.

Thục Phán dùng mưu kế làm cho các chúa mất nhiều công sức, mà không ai thắng cuộc, như tổ chức các cuộc thi bắn cung trúng lá đa khi lá rụng, dùng một cái lưỡi cày để làm ra 1.000 chiếc kim... Thục Pháncòn dùng cả "mỹ nhân kế", cho 10 thiếu nữ xinh đẹp đi theo các người thi... Đến giờ Hợi nhưng tất cả các chúa vẫn chưa ai làm xong. Cuối cùng, các chúa không ai thắng được đã phải quy phục Thục Phán. Sau đó, nước Nam Cương trở nên cường thịnh".

Theo ông Đinh Ngọc Viện trong Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008:
“ "Thành Bản Phủ đến nay vẫn còn dấu tích khá rõ nét, thành được xây dựng ở một vị trí rất đẹp và quay mặt sang hướng Đông Nam. Phía trước thành là Hồ sen rộng khoảng 7ha và cánh đồng Cao Bình bằng phẳng; tiếp đó là cánh đồng Tổng Chúp, trước đó gọi là cánh đồng Tổng Quảng có nghĩa là cánh đồng rộng, sau cuộc đua tài của chúa Tiến Đạt chưa cấy hết (còn bằng cái nón) nên được gọi là cánh đồng Tổng Chúp. Gần chân thành là giếng ngọc (nay gọi là Bó Phủ) nước trong vắt quanh năm. Gần hồ sen là Đền Giao và Thiên Thanh tương truyền là nơi vua tế lễ trời đất. Bên phải và bên trái thành còn có vườn hoa (Đào Viên) cung Hoàng hậu, nhân dân quen gọi là Đông Tầm và một bên là khu vực dành cho các cung nữ. Phía trên khu đồi gọi là Thôm Dạng tức là khu vực nuôi voi, khu vực dành cho các em nhỏ gọi là Hồ nhi. Gần Bản Phủ là cây đa cổ thụ tương truyền là chúa Kim Đán đã dùng cung tên bắn gần trụi hết lá. Ra khỏi vòng thành ngoài, gần Đầu Gò hiện nay có một đôi guốc đá khổng lồ chưa kịp đục lỗ xỏ quai, đó là kết quả thi tài của chúa Văn Thắng; tiếp tục đi theo quốc lộ 4 khoảng 1 km ở bên phải đường có một quả đồi gọi là Khau Lừa tức đồi thuyền, theo truyền thuyết đó là con thuyền mà chúa Ngọc Tặngchưa kịp lật. Đối diện với Khau Lừa ở bên kia sông Bằng Gianglà thành Nà Lữ (có đền vua Lê, hàng năm cũng tổ chức lễ hội vào ngày mùng 6 tháng Giêng). Còn thiếu một cửa thành do cuộc đua tài của Thành Giángbị bỏ dở. Còn các chúa làm thơ, mài kim... đều bỏ dở vì khi cuộc thi gần đến thắng lợi thì nghe tiếng trống của Quang Thạcvang lên, các chúa tưởng Quang Thạc đã giành chiến thắng. Nhưng cả Quang Thạc cũng bị trúng mỹ nhân kế của Thục Phán nên để trống lăn xuống vực mà kêu ầm lên vang vọng cả núi rừng, nơi trống lăn gọi là Tổng Lằn.

Năm 2006, các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát một số di tích và truyền thuyết có liên quan đến huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng và thấy rõ sự trùng khớp thống nhất giữa di tích và truyền thuyết. Đặc biệt là các câu chuyện về Thục Phán - An Dương Vương và nước Nam Cương đã ăn sâu vào ký ức của người dân từ lâu đời.

Thời Mạc (giai đoạn 1594-1677)

Nước Nam Cươngnhà Mạc giai đoạn 1594-1677 đều đặt vương phủ ở thành Bản Phủ. Dấu tích nhà Mạc đè lên dấu tích thời Nam Cương, nên dấu tích thời Nam Cương chưa tìm thấy gì. Bảo tàng tỉnh Cao Bằng từng tiến hành khảo sát trong thành Bản Phủ, đào sâu 2m rộng 2m dài 6m đã tìm thấy những mảnh gốm thời Mạc. Hiện nay những địa danh còn tồi tại trên 400 năm ở phía Đông Bản Phủ có giếng Bó Phủ có nước chảy quanh năm ra đầm sen (nay đầm sen đã thu hẹp lại), có cánh đồng Tổng Chúp, phía Tây có cung Hoàng Phi, Ly Cung nhà Mạc ở gò Đống Lân, trường quốc học ở Bản Thảnh, chuông chùa Đà Quận đúc thời Mạc, Thiên thanh nơi chiêm tinh, đài giao cúng tế trời, đào viên (vườn hoa), vườn Thượng uyển, hồ cỏ ngựa (nuôi ngựa), miếu thờ Hoàng hậu Mạc Kinh Vũ ở cuối chợ Cao Bình, miếu thờ công chúa Hoa Dung công chúa thứ ba của vua Mạc ở Cầu Khanh, thành nhà Mạc, đền vua Lê ở Nà Lữ. Mới phát hiện có tướng chỉ huy quân cấm vệ ở Bản Phủ tên là Nguyễn Đức Minh được vua Mạc ấn phong Điện Tiên chỉ huy xứ, chỉ huy quân cấm vệ bảo vệ vương triều và kinh thành. Và một cụ được phong là Phụ quốc công thượng tướng quân, cụ giỏi về bắn cung và luyện ngựa được ấn phong Thần vũ vệ tả trung úy Thân vũ hầu là Kim pha (Nà Cạn, Mục Mã, thành phố Cao Bằng). Hai tướng này đều quê ở xã Phước Mỹ, An Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nghiên cứu theo gia phả họ Nguyễn).

Cấu trúc


Sơ đồ thành Bản Phủ nằm trong khu di tích kinh đô Cao Bình ở tình Cao Bằng

Thành đắp bằng đất, tường trình, xung quanh có luỹ tre và hào bao bọc, vừa có giá trị phòng thủ quân sự, vừa có tác dụng ngăn lũ sông Bằng Giang, bảo vệ cho khu vực Bản Phủ.

Về mặt tư duy logic, nếu như thành Cổ Loangày xưa xây theo chân đồi, chỗ cong thì xây cong, thẳng thì xây thẳng, nếu thành Bản Phủ có từ thời An Dương Vương thì không thể có hình vuông. Thành ngày xưa được xây để ngăn quân thù, ngày xưa xây quanh theo quả đồi, sau hình học ra đời thì người ta mới xây theo hình vuông.[10] Theo PGS TS Trình Năng Chung thì:
“ "Muốn chứng minh thành Bản Phủ là của An Dương Vương Thục Phán thì phải khai quật như khai quật thành Cổ LoaĐông Anh vậy. Nhưng làm như thế rất tốn kém về thời gian, vật lực và nhân lực."

Thời tiền sử

Trong đợt khảo cổ để tìm dấu tích của thời đại kim khí Thục Phán đã từng xây thành, lập chốt ở Cao Bằng, đoàn khảo cổ đã tiến hành khảo sát bãi đá sỏi lộ thiên tại làng Bó Mạ, xã Hưng Đạo.

Họ phát hiện, ở khu vực bến sông ăn ngầm sâu vào trong bờ có công cụ bằng đá thô sơ, chứng tỏ người thời tiền sử đã từng sinh sống ở đây. Đó là những công cụ bằng đá mà người nguyên thuỷ ghè một đầu để làm chỗ cầm (rìu đá) để chặt cây hay giết thú. Con người đã sớm sinh sống ở khu vực này mà nơi cư trú chính là những gò đất cao dọc theo bờ sông Bằng Giang.

Tuy nhiên, những hiện vật để minh chứng cho vùng đất cổ mà người cha của Thục Phán đã chọn để xây thành thì nay vẫn là điều vô cùng bí ẩn.

Thời Lê-Mạc

Qua khai quật khảo cổ và một số phát hiện của địa phương trong quá trình xây dựng và sản xuất đã thu được một số hiện vật có giá trị về mặt lịch sử như: đồ đá, đồ đồng, gốm. Đặc biệt, mới đây nhất, trong quá trình dùng máy xúc đất, người dân đã phát hiện một thanh đao cổ dài hơn 1m nhưng chưa rõ có từ thời nào. Sau đó, một đoàn khai quật đã lên Cao Bằng để nghiên cứu. Ngay khi mới chỉ đào một hố nhỏ sâu vài mét ở tường thành, đoàn đã phát hiện hiện vật nằm dày đặc, chủ yếu là các loại vật liệu xây dựng và các vật dụng cổ, bao gồm đồ đá, đồ sành, gốm và sứ. Ngoài ra cũng tìm được một số mẩu kim lại bằng sắt và đồng đã gỉ. Sự khác nhau giữa các di vật trong các tầng lớp hầu như không có, gần như là có sự tương đồng, điều đó nói lên thành này được đắp trong cùng một thời gian. Qua nghiên cứu và xác định niên đại những di vật nằm trong địa tầng, phần lớn các hiện vật thu được cho thấy thành này được xây dựng từ thời Lê – Mạc.

Popular Posts

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 44

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 50

MỘT GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÂN CHIA CÁC DÂN TỘC TÀY, NÙNG

Nguồn gốc và lịch sử của người Thái qua sử thi Quam tô mương

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

Popular Posts

CÁC TỪ CHỈ VỊ TRÍ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TRONG TIẾNG TÀY - NÙNG

SỰ TÍCH TẠI SAO VỊT KHÔNG BIẾT ẤP TRỨNG

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 44

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 50

MỘT GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÂN CHIA CÁC DÂN TỘC TÀY, NÙNG

Popular Posts

CẨU CHỦA CHENG VÙA (CHÍN CHÚA TRANH VUA)

Các thì trong tiếng Tày - Nùng

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 1

VẤN ĐỀ CƯƠNG VỰC NƯỚC ÂU LẠC

VẤN ĐỀ ÂU VIỆT VÀ LẠC VIỆT

TRUYỀN THUYẾT TÀY - NÙNG: 3 TRUYỆN

MỘT GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÂN CHIA CÁC DÂN TỘC TÀY, NÙNG

Người truyền lệnh bằng tiếng Tày trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 42