CÁC TỪ MỚI TIẾNG TÀY - NÙNG DO TRIỆU LAM CHÂU ĐỀ XUẤT


Các từ mới tiếng Tày – Nùng do cố nhà thơ Triệu Lam Châu nghiên cứu xây dựng

Nông nghiệp: Nghẻ nà (Nghề làm ruộng)
Ngư nghiệp: Nghẻ pja (Nghềcá)
Lâm nghiệp: Nghẻ đông (Nghềrừng)
Thương nghiệp: Nghẻ puôn (Nghề buôn).
Tự do: Táng thư
Tự chủ: Chẩu châư
Nghị quyết: Khoắc rủng
Thẩm định: Ngòi sloán 
Chứng minh thư/CMND: Pjếng mỉnh
Sáng tạo: Có rủng
Tâm sự: Păn châư
Bí thư:
Chính trị: chính xằn 
Tỉnh: Slảnh
Chủ tịch, người đứng đầu tổ chức: Cốc cai
Bí thư tỉnh uỷ: Cốc chính xằn slảnh
Chủ tịch tỉnh: Cốc cai slảnh.
Phó bí thư tỉnh uỷ: Nhỉ cốc slảnh chính xằn
Bí thư huyện uỷ: Cốc hoẹn chính xằn
Phó bí thư huyện uỷ: Nhỉ cốc hoẹn chính xằn
Bí thư Đảng uỷ xã: Cốc xạchính xằn
Phó bí thư Đảng uỷ xã: Nhỉ cốc xạ chính xằn
Bí thư Đảng uỷ trường: Cốc tường chính xằn
Bí thư Đảng uỷ Sở giáo dục: Cốc cáng chính xằn slon cháo
Phó chủ tịch tỉnh: Nhỉ cốc cai slảnh
Chủ tịch huyện: Cốc cai hoẹn
Phó chủ tịch huyện: Nhỉ cốc cai hoẹn
Chủ tịch xã: Cốc cai xạ
Phó chủ tịch xã: Nhỉ cốc cai xạ
Trường tiểu học: Tường khay châư
Trường trung học cơ sở: Tường có châư cốc cắn 
Trường phổ thông trung học: Tường có châư pan chang  
Tỷ lệ: Pỉ mạ  
Ý kiến: Gằm nhỏi.
Điều kiện: Tu khay/luồng t’ài
Hội viên: Muối ngần
Thẻ: Piếng hai
Quy hoạch:  Sloán quây 
Khoa học: Pỏn ljếm
Quy luật: Thỏ ljếm 
Kinh tế: Pỏn có/Ljếm pỏn
Xã hội: D’ưởng d’ú
Tình hình: D’ưởng gừa 
Nhiệm vụ: Fjệc thàng
Nghĩa vụ: Fjệc mỉnh
Hội đồng: Boong thàng
Thường vụ: Nhòn thàng
Thể chế/chế độ: Lẹ toóc

Công dân: Cần lẹ

Giải nghĩa
Các từ mới trên được Triệu Lam Châu giải thích, tổng hợp lại qua bài viết sau

 
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ TỪ NGỮ TIẾNG TÀY MỚI HIỆN ĐẠI

I. NHU CẦU CẦN ĐẶT TỪ TÀY MỚI
 Là con cháu người Tày,chúng ta thật tự hào về kho tàng ngôn ngữ Tày khá phong phú và hết sức tinhtế mà cha ông đã để lại cho chúng ta hômnay. Nhờ kho ngôn ngữ quý giá ấy mà ông cha chúng ta đã sáng tạo ra cả mộttrường ca Khảm hải bằng một ngôn ngữ Tày trong sáng và hết sức gợi cảm. Rồi cảmột kho tàng tục ngữ, ca dao dân ca, một loạt truyện cổ tích bằng tiếng Tày kháđồ sộ. Đặc biệt ngôn ngữ Tày phát triển đến mức điêu luyện và hết sức đặc sắcvới những bài thơ tiếng Tày của nhà thơ lớn Hoàng Đức Hậu trong thế kỷ haimươi. Ông đã đưa tiếng Tày lên một đỉnh cao mới đầy ngoạn mục làm lay động lòngngười.
Có thể nói phần ngôn ngữvăn học Tày phản ánh cuộc sống lao độngvà tâm tư tình cảm của con người – là khá phong phú và đáng tự hào.
Song kể từ năm 1960, cảnước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội - Các dân tộc ở miền núi, trong đócó dân tộc Tày, cũng hoà nhịp với nhịp độ dựng xây của đất nước. Các lĩnh vựcchính trị - kinh tế - văn hoá – xã hội – giáo dục – an ninh - quốc phòng – khoahọc kỹ thuật... đều song hành cùng phát triển vượt bậc so với các thời kỳ lịchsử trước đó. Và tiếng Việt cũng đã phát triển vượt bậc để đáp ứng cho các lĩnhvực đó của cuộc sống con người và đất nước.
Nhưng riêng đối với tiếngTày, theo tôi, Triệu Lam Châu, thì hiện nay đã không đáp ứng nổi sự tiến triểncủa các lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hoá – xã hội – giáo dục – an ninh -quốc phòng – khoa học kỹ thuật... Nghĩa là muốn diễn đạt bằng tiếng Tày về cáclĩnh vực này, thì đành phải mượn tiếng Việt đến tám mươi, chín mươi, thậm chímượn trăm phần trăm... Thí dụ câu như sau: “Hộiđồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng các cơ quan đoàn thể triển khai nghị quyếtcủa Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng nhiệm kỳ...” Trong câu nóicó thể gọi là giản dị này, nhưng để diễn đạt bằng tiếng Tày hoàn toàn, thì đànhphải bó tay. Trong câu trên, chỉ có thể dịch nổi sang tiếng Tày chữ: Cùng,của... mà thôi. Ngoài ra phải mượn tiếng Việt hết gần như trăm phần trăm. Bởivì tiếng Tày không có những từ còn lạitrong câu trên. Những thí dụ như trên nhiều lắm, nhất là khi diễn đạt về cácnội dung liên quan đến khoa học kỹ thuật, thì phải mượn tiếng Việt trăm phầntrăm. Tiếng Tày không có những từ thậm chí đơn giản như: Đại số, Vật lý, Hoáhọc, Sinh vật học, Khoa học, Lịch sử, Triết học, Sư phạm, Nông nghiệp, Côngnghiệp, Tâm lý học, Y tế...
Thực trạng tiếng Tày thiếunhiều từ hiện đại như vậy, do đó các nhà trí thức Tày, khi trao đổi với nhau vềchuyên môn, thì đành phải dùng tiếng Việt trăm phần trăm. Điều ấy họ không muốnchút nào, nhưng phải chịu thôi, biết làm thế nào được.
Nhiều lúc tôi cứ nghĩ lẩnthẩn rằng: Vậy thì tiếng Tày đến bây giờ đã hết sứ mệnh lịch sử rồi chăng? Ôi,nghĩ thế thì đau đớn quá. Song rất tiếc đó lại là sự thật hết sức phũ phàng,không thể nào cưỡng nổi. Quả thật nếu chúng ta không kiên trì và gắng sức sángtạo ra từ ngữ tiếng Tày mới hiện đại, thì có thể nói không ngoa rằng tiếng Tàyquý giá của chúng ta đành phải đánh dấu chấm hết tại đây thôi. Hỡi anh em Tàyyêu quý, liệu chúng ta có can tâm đứng nhìn những giá trị ngôn ngữ Tày thiêngliêng ngàn năm của ông cha chúng ta đang đi vào ngõ cụt không?
Là một người Tày tâmhuyết vô cùng với tiếng mẹ đẻ của mình, tôi không muốn và không thể chấp nhậnhiện trạng phũ phàng ấy, dẫu đó là sự thật. Chính vì vậy tôi xin mạnh dạn (cóthể nói là điếc không sợ súng, vì đây là công việc hết sức đồ sộ của rất nhiềungười) đề xuất những từ ngữ Tày mới hiện đại.
Tóm lại tôi xin khẳng địnhrằng:
 Hiện nay vốn từ ngữ tiếng Tày đã có không đáp ứng nổi cho việc phảnánh hiện thực muôn màu của xã hội hiện đại, đặc biệt là những mảng hiện thựcliên quan đến các lĩnh vực Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹthuật, giáo dục, an ninh, quốc phòng…
 Do đó nhu cầu cầu cần đặtra những từ Tày mới để phản ánh hiện thực của xã hội hiện đại – là một nhu cầukhách quan và hết sức cấp bách, không thể chậm trễ…
II. MẤY MGUYÊN TẮC ĐỀ XUẤT TỪTÀY MỚI HIỆN ĐẠI
a. Nguyên tắc đề xuất từ Tày mới:
Một là: Dựa vào những từ ngữ Tày đã có trong cuộcsống, mà phổ cho nó những giá trị mới để tạo ra những từ ngữ mới phản ánh hiệntrạng mới của xã hội hiện đại.
Hai là: Tâm hồn mình phải đắm hoàn toàn, hết sứcmáu thịt vào từ trường văn hoá thiêng liêng của người Tày - rồi trước nhữnghiện trạng mới mẻ của cuộc sống hiện đại - phải bằng tâm hồn nhạy cảm tinh tếcủa người nghệ sĩ, hãy lắng nghe sâu xa trong nội tâm của mình xem, nó sẽ phátra từ gì để biểu hiện chúng. Nguyên tắc này quả là hơi mông lung, nhưng nó vốncó trong thực tế của mỗi tâm hồn con người chúng ta. Đặc biệt là những người cótâm hồn nhạy cảm.
Ba là: Những từ Việt quá khô khan, quá mới và lạlẫm hoàn toàn (như trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật), không gây được cảmhứng cho tâm hồn ta phát ra từ Tày mới tương đương – thì đành phải mượn tiếngViệt thôi. Và cha ông chúng ta đã mượn theo kiểu, nói chệch đi cho dễ phát âmđối với người Tày chúng ta. Thí dụ từ Máy, ông cha chúng ta đã mượn tiếng Việtvà gọi chệch đi là Mảy. Chính vì vậy tôi đề xuất từ Công nghiệp, tiếng Tày là Nghẻ mảy.
Rồi cứ theo nguyên tắc ấy,ta cũng sẽ có ngay một loạt từ mới như sau:
Nông nghiệp: Nghẻ nà (Nghề làm ruộng)
Ngư nghiệp: Nghẻ pja (Nghềcá)
Lâm nghiệp: Nghẻ đông (Nghềrừng)
Thương nghiệp: Nghẻ puôn (Nghề buôn).
b. Một số thí dụ minh hoạ choviệc Đề xuất từ Tày mới:
TỰ DO:
Từ đầu tiên tôi tìm tòivà đề xuất là từ “Tự do” bằng tiếng Tày. Tôi kiên trì tìm từ năm 2009 tới giờmới thấy. Ròng rã ba năm trời, mới xong một từ. Vậy thì hàng vạn từ tiếng Tàycòn thiếu, thì mất bao nhiêu năm mới tìm ra... Từ Tự do, khác với từ Tự chủ. Tựchủ là tự điều khiển mình, tự làm chủ mình, không bị ảnh hưởng ai cả, tự quyếtđịnh mọi công việc...Còn tự do là không bị bó buộc, kiểm soát... Nó cũng cũngbao hàm tự chủ, nhưng lại phóng khoáng, bay bổng hơn và có cả phần lãng mạnnữa.

Tự chủ, tôi đề xuất tiếng Tày là Chẩu châư (Làm chủ hơi thở, làm chủ lòng mình).
Từ Tự do, tôi đã thửnhiều phương án: nào là Táng bân (tự bay). Từ này không được, vì nó lộ liễu vàthô mộc quá. Nào là Táng pây (tự đi) – cũng không ổn. Nào là Táng hất (tự làm)- lại càng không được.... Thế rồi một buổi sáng mùa xuân 2012, Bà Mẹ Hoa đãmách bảo cho tôi, Tự do - tiếng Tàylà Táng thư (Tự mang và tự phátsáng). Từ Thư trong tiếng Tày vừa có nghĩa là mang, vừa có nghĩa là phát sánglà cháy. Như vậy tôi thấy Táng thư - vừa tự phát sáng vừa tự gánh vác số phậncủa mình một cách phóng khoáng.
NGHỊ QUYẾT:
Rồi có những từ ta thườnggặp hàng ngày trên đài, báo là từ Nghị quyết. Đó là sự quyết định làm nhữngviệc đã được bàn bạc và thảo luận kỹ của Đại hội của các tổ chức Đảng, Đoàn...,hoặc của cuộc họp cấp uỷ nào đó... Bản chất của nghị quyết là đề ra những việclàm thiết thực và cấp bách, để đạt được mục đích tươi sáng hơn... Vậy tôi xinđề xuất Nghị quyết, tiếng Tày nghĩalà Khoắc rủng (Nghĩa là bậc sáng).
Thí dụ: Sau Đại hội ấy, Đảng đã ra nghị quyết về...
Lăng Pan pjoọm mỉn, Đảng pặt oóckhoắc rủng mừa...
THẨM ĐỊNH:
Từ này thường liên quanđến hoạt động kinh tế, khoa học kỹ thuật. Khi làm xong một công trình, người taphải tiến hành thẩm định, có nghĩa là xem xét đánh giá chất lượng của côngtrình ấy rất kỹ càng, rồi đi đến kết luận công trình đã đạt yêu cầu hay chưa,và sau cùng mới mới tiến hành nghiệm thu nó.
Trong tiếng Tày chưa cótừ Thẩm định. Tôi nghĩ tiếng Tày có từ Ngòi – nghĩa là xem xét. Còn từ Sloán –nghĩa là lo liệu, định liệu, giải quyết... Và tôi đề xuất:
Thẩm định, tiếng Tày nghĩa là Ngòisloán (Xem xét để đánh giá và giải quyết)
CHỨNG MINH THƯ:
Rồi có những từ rất đơngiản như Chứng minh thư, mà tiếng Tày cũng không có. Bằng giác quan nhạy cảmcủa người nghệ sĩ, tôi đã nghĩ ra: Piếngmỉnh (tiếng Tày) nghĩa là Chứng minhthư. Piếng mỉnh nghĩa là tờ giấy của số phận. Số phận chính trị của mộtcông dân như đã được mã hoá vào Piếng mỉnh vậy.
SÁNG TẠO:
                            
Một trong những từ đầutiên, tôi nghĩ tới là từ Sáng tạo, tiếng Tày nói thế nào đây? Từ này tôi tìmcũng rất lâu mới thấy. Sáng tạo, có nghĩa là nghĩ ra cái mới và làm ra nhữngcái mới tốt đẹp hơn, hiệu quả hơn để phục vụ cho cuộc sống con người cả về lĩnhvực vật chất cũng như tinh thần.
Tôi lại nhớ một câu nói củacác bậc cha mẹ người Tày hồi xưa, khi động viên con học hành: Mầư cử cổ slonpây, pa mé nhằng có hẩư mầư đảy dầy (Con cứ cố gắng học hành nhé, bố mẹ còn  đủ khả năng và điều kiện( có) cho con học được mà)
Hoặc câu này: Nâư dạu mé cóvầy rủng - Sớm mai mẹ nhóm lên ngọn lửasáng.
Vậy từ Có trong tiếng Tàycó nghĩa là nhen nhóm, gây dựng và tạo điều kiện cho những mục đích sáng láng,những công việc cho ngày mai tươi đẹp hơn. Vậy tôi còn ngần ngại gì nữa Sáng tạo, tiếng Tày là Có rủng.
TÂM SỰ:
Rồi từ Tâm sự nữa. Từ nàythanh niên đang tuổi yêu đương thường dùng nhiều. Song thanh niên Tày cũng dùngtừ này y như tiếng Việt vậy. Noọng mì vèlăng tâm sự oạ chài bấu?Em có điều gì tâm sự với anh không? Là một ngườiTày chân chính, khi nghe có độn từ Tâm sự lạc loài vào câu nói trữ tình nhưtrên – tôi cảm thấy như gặp phải một hạt sạn khô khốc, thật là chối tai. Thậtra cũng không nên trách thanh niên Tàykhi bê y nguyên từ trên vào câu tỏ tình của mình. Vì họ chưa nghĩ ra được từTày thay thế.
Tâm sự có nghĩa là giãibày, bày tỏ, chia sẻ những nỗi niềm tâm huyết riêng của lòng mình với một ai đó(tri âm).
Trong tiếng Tày, có từ Păn,có nghĩa là chia sẻ. Còn từ Châư, nghĩa là hơi thở, là tâm hồn bên trong củacon người.
Từ đó tôi có căn cứ đề xuất từ mới: Tâm sự, tiếng Tày nghĩa là Pănchâư.
BÍ THƯ TỈNH UỶ:
Hiện nay Đảng lãnh đạo mọimặt cuộc sống của đất nước chúng ta. Những từ liên quan tới Đảng cũng thật lànhiều, mà tiếng Tày còn thiếu nhiều từ tương đương để biểu hiện. Thí dụ như từBí thư tỉnh uỷ, Chủ tịch tỉnh...
Chúng ta đã biết Bí thư tỉnhuỷ là người đứng đầu của Đảng bộ tỉnh, là người đứng đầu về mặt chính trị củamột tỉnh, đó cũng là người đứng đầu về mặt tư tưởng tinh thần...
Vậy tôi đề xuất Bí thư tỉnh uỷ, tiếng Tày là Cốc slảnh chính xằn (Người đứng đầutỉnh về tư tưởng chính trị và tinh thần). Còn Chủ tịch tỉnh, tiếng Tày là Cốccai slảnh.
Vậy thì cứ theo quy tắc ấy, ta sẽ có ngay một loạt từ Tày mới:
Phó bí thư tỉnh uỷ: Nhỉ cốc slảnh chính xằn
Bí thư huyện uỷ: Cốc hoẹn chính xằn
Phó bí thư huyện uỷ: Nhỉ cốc hoẹn chính xằn
Bí thư Đảng uỷ xã: Cốc xạchính xằn
Phó bí thư Đảng uỷ xã: Nhỉ cốc xạ chính xằn
Bí thư Đảng uỷ trường: Cốc tường chính xằn
Bí thư Đảng uỷ Sở giáo dục: Cốc cáng chính xằn slon cháo
Phó chủ tịch tỉnh: Nhỉ cốc cai slảnh
Chủ tịch huyện: Cốc cai hoẹn
Phó chủ tịch huyện: Nhỉ cốc cai hoẹn
Chủ tịch xã: Cốc cai xạ
Phó chủ tịch xã: Nhỉ cốc cai xạ
Lần đầu tiên tôi chia sẻ vớibạn bè về từ Bí thư tỉnh uỷ bằng tiếng Tày- Bạn cười bảo: Nghe như nghe tiếngMông vậy, thật buồn cười, nhưng ngẫm sâu lại thấy có lý.
  Phải thành thật nói rằng:Những từ ngữ tiếng Tày mới, nghe lần đầu có vẻ lạ tai, thậm chí buồn cười nữa.Song chỉ cần dùng một, hai lần là người Tày nhớ và tâm đắc ngay. Tôi đã trảinghiệm điều này. Tại sao vậy? Bởi vì những từ ấy được mọc lên từ vầng sángcủa từ trường văn hoá Tày ngàn năm thiêng liêng. Mà mỗi người Tày chúng ta, từtrong bào thai của mẹ đã đắm hết hồn mình vào vầng sáng ấy.
TRƯỜNG TIỂU HỌC:
Trường tiểu học: Tường khay châư (Trường khai mở tâm hồn)
Trường trung học cơ sở: Tường có châư cốc cắn (Trường nhóm lửa tâmhồn (phát sáng) cơ sở)
Trường phổ thông trung học: Tường có châư pan chang (Trường nhómlửa tâm hồn (phát sáng) trung học).
Theo thiển ý của tôi: Haitừ Có châư (Nhóm lửa tâm hồn) hẳn là nặng ký và giàu ý nghĩa hơn cả từ Phổthông nữa cơ.
TỶ LỆ:
Tôi xin tâm sự thêm về việcđề xuất từ nữa, cũng thật là thú vị. Đó là từ Tỷ lệ. Tiếng Tày nói thế nào đây?Từ này hoàn toàn lạ hoắc trong tiếng Tày và chưa bao giờ có. Từ này chỉ có giớitrí thức Tày sử dụng khi trao đổi với nhau về khoa học tự nhiên và xã hội màthôi. Dân chúng Tày cũng ít dùng từ này trong thực tế cuộc sống. Từ Tỷ lệ nàythật là khó, tôi phải suy nghĩ cật lực hai tuần liền ròng rã. Thế rồi Bà Mẹ Hoacũng mỉm cười với tôi và đã ban cho tôi một từ Tày tương đương thật đắc đạo.
Trong ngôn ngữ Tày đã có từPỷ, nghĩa là so sánh. Bấu pỷ đảy oạ lạo chài t’ỉ nao (Không thể sánh được với anh ấy đâu).
Song từ Pỷ chỉ thể hiện sựso sánh hơn kém đơn thuần thôi. Còn từ Tỷ lệ là sự so sánh giữa các phần củamột tổng thể theo một mức độ chính xác và nghiêm ngặt, theo một cái ngưỡng hayhạn độ nghiêm ngặt. Thí dụ: Tôi tuyểnngười vào đội văn nghệ của trường theo tỷ lệ ba nữ, hai nam. Theo tỷ lệ ấy,nghĩa là nếu lấy 9 cô nữ thì sẽ phải lấy 6 anh nam giới vào đội văn nghệ.
Tìm từ Tày tương đương vớitừ Tỷ lệ - thật là nan giải vô cùng. Thế rồi tôi lại chợt nghĩ: Tiếng Tày có từMạ sló, nghĩa là Chuẩn mực, mức độ, tiêu chuẩn... Mì mạ, có nghĩa là: Có giớihạn, có mức độ, hạn độ nghiêm ngặt, có chuẩn mực...
Và tôi xin đề xuất Tỷ lệ, tiếng Tày, nghĩa là Pỷ mạ (Sự so sánh theo một hạn độnghiêm ngặt)
Ý KIẾN:
Ý kiến là cái ý do mìnhphát biểu ra. Thí dụ: Trong cuộc họp córất nhiều ý kiến phát biểu xây dựng kế hoạch hoạt động trong năm nay...
Tôi đã nghĩ tới các phươngán là: Ỷ phuối, Gằm phuối... Nhưng cảm thấy chưa thoả đáng, chưa tương đươngvới từ Ý kiến.
Vậy thì cứ đắm mình vào từtrường văn hoá Tày thiêng liêng, và lắng nghe xem từ nội tâm sâu thẳm của mình,phát ra từ Tày nào, để biệu hiện từ Ý kiến. Và Triệu Lam Châu đã nghe thấy, đólà từ Gằm nhỏi.
Ý kiến, tiếng Tày nghĩa là Gằmnhỏi (lời nhỏ nhẹ, khiêm nhường). Đúng vậy, bản chất truyền thống chung củangười Tày từ ngàn xưa là khiêm tốn, nhỏ nhẹ và nhún nhường, nhất là đối vớikhách lạ mới quen, hoặc ở chỗ cuộc họp đông người. Những hiện tượng ngạo mạn,tự vỗ ngực ta đây, dương dương tự đắc... là hoàn toàn xa lạ với bản tính ngườiTày từ bao đời nay. Do đó tôi cho rằng từ Tày Gằm nhỏi (Ý kiến) là phản ánhđược nét văn hoá đặc sắc của người Tày vậy. Gằm nhỏi - lời nhỏ nhẹ khiêmnhường, lấy cái đúng làm trọng khi phát biểu ý mình trước đông người. Điều đócũng thật đúng với tinh thần phát biểu mang tính xây dựng cho công việc chung.Tìm ra từ Gằm nhỏi, tôi cảm thấy thật nhẹ lòng và lâng lâng hạnh phúc.
ĐIỀU KIỆN:
Quá trình tìm từ Tày mớitương đương với từ Điều kiện – cũng thật là hấp dẫn. Trong cuộc sống của bà conở bản làng từ trước tới nay, tôi chưa thấy có từ Điều kiện bằng tiếng Tày. Nếuphải diễn đạt ngữ cảnh có từ Điều kiện, thì họ phải dùng cả một cụm từ.
Thí dụ về Điều kiện:
Nỉ mẻn hất liẹo bại vè mỉn,khỏi dẳng hất việc nẩy hẩư nỉ
Anh phải giải quyết hết nhữngvấn đề ấy, tôi mới làm việc này cho anh
Cách diễn đạt như trên bằng tiếng Tày, chỉ mới thể hiện khái niệmĐiều kiện, chứ chưa có từ Điều kiện bằng tiếng Tày.
Nội dung của từ Điều kiện,theo tôi hiểu, đó là những sự kiện, hiện trạng, hoàn cảnh, việc làm... nhấtthiết phải có, phải được đáp ứng – thì mới hy vọng công việc, công trình, cáchthức giải quyết... tiếp theo được thực thi.
Thí dụ: Tạo điều kiện... cónghĩa là mở lối, mới đường... cho một vấn đề nào đó được giải quyết.
Để tìm từ Tày Điều kiện, tôi lại phải đắm mình vàotrường văn hoá Tày hàng tháng trời, mà vẫn chưa thấy lấp ló ở chân trời xa xăm.Nhiều lúc chán nản lắm. Thế rồi vào một buổi sớm mai, tôi nghe lòng mách bảocho hai từ Tày có thể tương đương với từ Điều kiện mà tôi đang kiếm tìm.
Đó là hai từ: Tu khay vàLuồng t’ài.
Tu khay, nghĩa là Cửa mở
Luồng t’ài, nghĩa là Conrồng nâng đỡ
Thí dụ: Sle hất viểc nẩy, nỉ hẩư ngỏ kỷ lai tu khay (kỷ lai luồngt’ài)
Để làm việc này, anh cho tôi bao nhiêu cửa mở (Bao nhiêu rồng nâng đỡ)
Dĩ nhiên khi mới dùngnhững từ lạ như vậy bằng tiếng Tày, hẳn nhiều bạn sẽ cảm thấy buồn cười. Songkhi bình tâm suy nghĩ kỹ, cũng sẽ thấy ánh sáng của nó lấp ló phía chân trời xavà cũng có lý chứ.
Vậy Triệu Lam Châu xin đềxuất:
Điều kiện, tiếng Tày là TuKhay, luồng t’ài
HỘI VIÊN:
Thế rồi một từ đơn giản như Hội viên, tiếng Tày cũng không có. Nóiđến từ Hội viên, chính là nói đến một người đã đạt tiêu chuẩn quy định và đượckết nạp vào làm thành viên của một Hội nào đấy. Thí dụ Hội viên Hội nhà vănViệt Nam.Như vậy trong tâm thức của tôi, từ Hội viên là một từ biểu hiện một sự phấn đấucủa một cá nhân (hay tổ chức nào đó) theo một tiêu chuẩn quy định nào đấy vàphải đạt yêu cầu - mới được gia nhập Hội. Do đó khi nhắc đến từ Hội viên, nhưthể cũng bao hàm một sự trân trọng. Chính vì lẽ đó, nội tâm mách bảo tôi đưa ratừ tương đương Hội viên bằng tiếngTày là Muối ngần (Hạt ngọc)
THẺ:
Những từ thường ngày trongcuộc sống hiện đại như từ Thẻ, tiếng Tày cũng chưa có, mà trên báo chí ta cũnggặp nhiều: Thẻ nhà báo, Thẻ nhà văn...
Và tôi lại lắng nghe nộitâm mình, rồi xin đề xuất như sau:
Thẻ, tiếng Tày là Piếng hai(Vỉa trăng)
Khi đề xuất tiếng Tày chotừ Thẻ, tôi bị ám ánh chủ yếu bởi hai cụm từ là Thẻ nhà báo và Thẻ nhà văn. Màmuốn được cấp thẻ của hai Hội sang trọng về mặt tinh thần ấy trong xã hội ta,thì người đó phải có năng khiếu viết báo và làm văn. Năng khiếu ấy phải đượcthể hiện bằng những tác phẩm báo chí và văn học đạt chất lượng, được Hội đồng chuyênmôn thẩm định và công nhận, thì tác giả mới được xét kết nạp vào làm Hội viêncủa các hội ấy. Sau khi gia nhập hội rồi thì mới được cấp thẻ.
Vậy từ Thẻ, nó bao hàm ướcmơ chính đáng của những ai có máu nghệ sỹ, nó chan chứa một chất lãng mạn nàođó thật bay bổng. Chính vì vậy có thể chấp nhận: Thẻ, tiếng Tày là Piếng hai(Vỉa trăng).
QUY HOẠCH:
Thế rồi một từ nữa cũng rấtkhó là từ Quy hoạch. Quy hoạch là bố trí, sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợplý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn. Thí dụ như: Quy hoạch các vùng kinh tế...
Lần theo nghĩa gốc của từquy hoạch, ta thấy toát lên một ý là: Những việc tiến hành trong quá trình quyhoạch, đều nhằm mục đích làm cơ sở (làm khâu trung gian) cho một tiến trình quymô và hoành tráng hơn tiếp theo. Nghĩ vậy, nên trong lòng tôi có sự mách bảo: Quy hoạch, tiếng Tày là Có t’àng luồng (Gây dựng đường rồng) vàSloán quây (Định liệu công việc vớitầm nhìn xa) . Tôi hy vọng rằng đấy là từ khả dĩ bà con Tày có thể chấp nhậnđược. Còn ai có đề xuất gì thêm, xin tha thiết mời các bạn cùng tham gia, đểgóp sức xây dựng tiếng Tày của chúng ta ngày càng phát triển như mong đợi.
KHOA HỌC: Hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trìnhlịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy kuật khách quan củathế giới bên ngoài, cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp conngười có khả năng cải tạo thế giới hiện thực.
Từ nghĩa chính trên đây, ta thấy nổi lên một vấn đề: Đó là vốn trithức giúp con người có chìa khoá thần diệu, để cải tạo hiện thực.
Vậy tôi xin đề xuất:
Khoa học: Tiếng Tày là Pỏn ljếm (Nguồn vốn của các phương pháp, phương thức tiếp cận hiệnthực…).
QUY LẬT: Mối liên hệ bản chất, ổn định, được lặp đilặp lại giữa các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Quy luật của tự nhiên.Quy luật phát triển xã hội. Quy luật kinh tế…
Phải nói rằng từ Quy luật này đã từng làm cho tôi tối tăm mặt mũibiết bao lần. Mỗi khi nghĩ đến lại thấy bí. Tiếng Tày mình gọi thế nào đây?
Thế rồi cuối cùng tôi thấy: Từ nghĩa gốc trên – ta có thể hình dungthấy một dòng chảy duy nhất, một lối đi duy nhất của các hiện tượng. Dòng chảyấy nối các hiện tượng với nhau theo một cách thức duy nhất, không thể khác. Dĩnhiên phải như thế. Tất nhiên phải như vậy.
Và tôi nghe Bà Mẹ Hoa ban cho như sau:
Quy luật: Tiếng Tày là Thỏ ljếm (Phương thức tiếp cận các hiện tượng, vấn đề….ấy – vốn cótrong tự nhiên và xã hội)
Ôi, khi tìm được từ Tày này, tôi thấy nhẹ hẳn cả người.
KINH TẾ: Tổng thể nói chung những quan hệ sản xuấtcủa một hình thái xã hội – kinh tế nhất định. Kinh tế phong kiến. Kinh tế tưbản chủ nghĩa.
Và cũng là Tổng thể nói chung những hoạt động của con người nhắmthoả mãn nhu cầu vật chất. Phát triển kinh tế….
Tôi nhận thấy cái cốt lõi của từ Kinh tế là: Tất cả các giá trị đềudo con người gây dựng nên. Do đó tôi đề xuất:
- Kinh tế: Tiếng Tày là Pỏn có (Nguồn vốn được gây dựng nên).Kinh tế tỉnh nhà – Pỏn có slảnh rườn. Đó là trường hợp thứ nhất.
- Kinh tế: Ljếm pỏn(Cách thức làm để đạt các giá trị của vốn). Làm như vậy không kinh tế đâu – Hất p’ận nẩy nắm rjèo ljếm pỏn d’á. Ljếm pỏn cũng có thể hiểu là Quy luật kinh tế.
XÃ HỘI: Hình thức sinh hoạt chung có tổ chức củaloài người ở một trình độ phát triển nhất định của lịch sử, xây dựng trên cơ sởmột phương thức sản xuất nhất định. Xã hội phong kiến. Xã hội tư bản.
Khi nói xã hội phong kiến, tôi hình dung ngay đó là một Vầng baoquanh cuộc sống con người. Trong Vầng ấy cuộc sống con người diễn ra theo quytắc và chuẩn mực của phong kiến. Đó là một hình thái của cuộc sống theo kiểuphong kiến.
Xã hội tư bản… Đó là một hình thái sống theo kiểu tư bản.
 Vậy:
Xã hội: Tiếng Tày là D’ưởng d’ú (Hình thái cuộc sống của con người).
TÌNH HÌNH: Tổng thể nói chung những sự kiện, hiệntượng có quan hệ với nhau, diễn ra trong một không gian, thời gian nào đó, chothấy một tình trạng hoặc xu thế pháttriển của sự vật. Tình hình chính trị….
Đấy, từ này mang tính tổng quát như vậy. Làm sao tìm từ Tày có haiâm mà biểu hiện được khái niệm tình hình? Tôi phải mất bốn năm trời ròng rã(2009 – 2013) mới tìm ra một từ khả dĩ…
Đọc đi đọc lại, rồi nghiền ngẫm khái niệm trên, tôi thấy nổi lêncái gọi là Một hệ thống phức tạp - mà hệthống này có nhiều hình thái khác nhau. Thí dụ: Tình hình kinh tế, chính trị,xã hội nước ta trước năm 1975 (Đấy là một hình thái). Rồi: Tình hình kinh tế,chính trị, xã hội nước ta sau năm 1975 (Lại một hình thái khác nữa).
Từ đó ta có căn cứ đề xuất như sau:
Tình hình: Tiếng Tày là D’ưởng gừa (Hình thái của hệ thống).
Áp dụng vào thực tế như sau: Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nướcta sau năm 1975 – D’ưởng gừa pỏn có, chăn cai, d’ưởng d’ú đin hây lăng pi1975….
Theo thiển ý của Triệu Lam Châu, thì khi dùng lần đầu tiên những từmới này sẽ hết sức ngỡ ngàng. Song cứ suy ngẫm kỹ và dùng vài lần, thì sẽ thấythấm thía ngay. Bởi vì đó là những từ chính gốc Tày thiêng liêng của chúng tađấy.
NHIỆM VỤ: Công việc phải làm vì một mục đích vàtrong một thời gian nhất định.
Năm 2009 khi đụngtới từ này, tôi cứ tưởng dễ, rồi hấp tấp nghĩ: Vjểc mẻn hất.
Thế thì không ổnchút nào đâu. Làm sao tìm từ có hai âm thôi. Nói là Vjểc mẻn hất – thì nghe thôtục quá đi.
Vậy là tôi phải đắm mình vào Trường văn hoá Tày mình thật lâu, thậtlâu xem sao? À, tôi còn nhớ mé nói: Au mẻ lùa mà thàng viểc rườn a là…. Cái từThàng của tiếng Tày mình rất tuyệt vời… Nó chính là đứng mũi chịu sào, đảmđương, lo toan, thu vén, định liệu, đối nội, đối ngoại, giải quyết mọi côngviệc…Tôi cứ hình dung từ Thàng như cái cột của chùa Một cột ở Hà Nội vậy – Nếukhông có Thàng, thì tất cả sẽ đổ hết ngay đó.
Từ đó Triệu Lam Châu đề xuất như sau:
Nhiệm vụ: Tiếng Tày là Vjểc thàng  (Việc cần phảiđảm đương, giải quyết).
NGHĨA VỤ: Việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với ngườikhác. Nghĩa vụ quân sự. Nghĩa vụ công dân.
Khi nhắc đến nghĩa vụ, tôi hình dung thấy một trách nhiệm cao cả vàthiêng liêng, vì nó gắn với Tổ Quốc (Thí dụ: Nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc). Và nhưvậy nó thường gắn liền với cả số phận của cả một cộng đồng người, của một đấtnước….
Vậy, tôi xin đề xuất:
Nghĩa vụ: Tiếng Tày là Vjểc mỉnh (Công việc của số phận).
BAN CHẤP HÀNH: Tập thể những người được đại hội của mộttổ chức chính đảng, đoàn thể bầu ra để thực hiện nghị quyết của đại hội và lãnhđạo công tác giữa hai kỳ đại hội.
Cha ông chúng ta đã có từ Poong chỉ một đoàn người, một nhóm người.
Thực ra Ban chấp hành là những người ưu tú của một tổ chức, đượcbầu ra để đảm đương mọi công việc. Ta đã có từ Thàng làm chìa khoá trên kiarồi.
Vậy ta có ngay:
Ban chấp hành: Tiếng Tày là Poong thàng (Nhóm người đảm đương mọi công việc).
BAN THƯỜNG VỤ: Một nhóm người ưu tú và có nhiều năng lực,được lựa chọn từ Ban chấp hành – để điều hành công việc hàng ngày của một tổchức Đảng, Đoàn thể….
Như vậy ta thấy: Ban thường vụ là tinh tuý của Ban chấp hành. Từđó, tôi đề xuất như sau:
Ban thường vụ: Tiếng Tày là Nhòn thàng (Trung tâm của các giá trị tinh tuý đảm đương côngviệc). Trong tiếng Tày ta có Nhòn xáy – Lòng đỏ của trứng. Nhòn, vừa gợi lên ýlà Trung tâm và là sự tinh tuý về chất lượng nữa đó.
THỂ CHẾ: Những quy định, luật lệ của một chế độ xãhội, buộc mọi người phải tuân theo.
Từ này cũng thật là nan giải. Đành lại phải đắm mình thật sâu vàoTrường văn hoá Tày, mới mong tìm ra thôi.
Trong tiếng Tày mình có câu Toóc teng (Đóng đinh) rất hay. Hay vìnó thể hiện một sự dứt khoát, dữ dội, không thể khác. Tôi thấy rất thú vị, vìnó hết sức độc đáo, vừa dân dã lại vừa mang tính triết học (Dẫu người Tày mìnhchưa hề có một nền triết học nào cả. Nó đang ở thời tương lai xa lắm lắm).
Tôi đề xuất như sau:
Thể chế: Tiếng Tày là Lẹ toóc (Những quy định, luật lẹ được đóng đinh chắc chắn).
CÔNG DÂN: Người dân trong quan hệ về mặt quyền lợivà nghĩa vụ đối với nhà nước.
Phải nói rằng khi chưa có nhà nước, thì chưa có khái niệm dân. Khinhà nước ra đời, thì mới có mối quan hệ giữa người dân với chính thể mà mìnhsống.
Vậy Người dân, tiếng Tày lẻ gần lăng ló? Dân hay Công dân – đều làtừ Hán-Việt cả. Người Việt đã mượn từ Dân của tiếng Hán rồi. Bây giờ người Tàychúng ta lại muợn tiếp như vậy nữa – thì coi như dẫm chân tại chỗ. Còn đâu làsáng tạo cơ chứ!
Nhiều lúc nản quá, nhưng Triệu Lam Châu không chịu đầu hàng đâu.Nghĩ mãi qua năm này tháng khác, hết sức trường kỳ, tột cùng kiên nhẫn. Khôngbiết hỏi ai cả. Hỏi ai bây giờ đây? Những giờ phút như vậy tôi thấy cô đơn đếnvô cùng mà sự vô cùng này có luỹ thừa vô… vô cùng nữa – thì biết làm sao đây hảtrời?
Không có Bà Mẹ Hoa, thì không tài nào làm nổi. Cuối cùng Bà Mẹ Hoacũng rủ lòng thương ban cho con như sau:
Công dân (Gọi tắt là Dân): Tiếng Tày là Gần lẹ (Con người của thể chế).
Bạn đọc thấy rồi đó. Khi tìm ra từ Gần lẹ, tôi thấy sung sướng hàngtháng trời liền.
III. KHUYẾN NGHỊ ĐỂ TỪ TÀY MỚI CÓ THỂ VÀO ĐỜI SỐNG NGÔN NGỮ:
Triệu Lam Châu tôi âm thầm một cách tự phát, tiến hành công trìnhĐề xuất từ ngữ tiếng Tày mới hiện đại từ năm 2009, đến năm 2015 này cũng vừatròn sáu năm ròng. Trong quá trình ấy tôi được nhiều bạn bè văn nghệ sĩ, đặcbiệt là những bạn bè người Tày tâm huyết với tiếng mẹ đẻ của chúng ta độngviên, cổ vũ rất nhiều về mặt tinh thần.
Nhờ vậy mà đến tháng 1 năm 2015 này tôi đã Đề xuất được hơn haingàn từ Tày mới hiện đại. Dĩ nhiên những từ Tày mới ấy chỉ là Đề xuất chủ quancủa riêng tôi. Chúng cần phải được đông đảo các chuyên gia ngôn ngữ Tày – Nùng,bạn bè tâm huyết với tiếng Tày, bạn bè văn nghệ sĩ tham gia bàn luận, đánh giávề các mặt ưu khuyết điểm của chúng.
Để có thể đưa những từ Tày mới này vào đời sống ngôn ngữ, tôi xinkính đề nghị như sau:

Một là: Uỷ ban dân tộc và miền núi (Của Chính phủ), Ban dân tộctrung ương (Của Đảng Cộng sản Việt Nam), Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Hội Vănhọc Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam và Viện Ngôn ngữ học – đầu tư kinhphí để tác giả Triệu Lam Châu sớm hoàn thành công trình ở mức độ khả dĩ nhất cóthể chấp nhận được.
Hai là: Tổ chức Hội thảo Công trình Đề xuất từ ngữ tiếng Tày mới hiệnđại
Ba là: Thành lập Hội đồng thẩm định và nghiệm thu Công trình.
Bốn là: Tổ chức in ấn với số lượng lớn để phát sách miễn phí chođồng bào.
Năm là: Tổ chức những lớp tập huấn về Từ Tày mới, cho các phóngviên báo chí, văn nghệ sĩ Tày, cho các nhà quản lý văn hoá và cho các giáo viêndạy ngôn ngữ trong các trường phổ thông (Nơi có người Tày cư trú).
Sáu là: Dần dần đưa nội dung tiếng Tày mới vào giảng dạy trong cáctrường phổ thông vùng đồng bào dân tộc Tày– Nùng cư trú.

Triệu Lam Châu - Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà, Phú Yên


Popular Posts

NGUỒN GỐC NGƯỜI TÀY - NÙNG

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

NÙNG TRÍ CAO - quan điểm 1

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 42

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 28

Popular Posts

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 48

NGUỒN GỐC NGƯỜI TÀY - NÙNG

CÁC TỪ CHỈ VỊ TRÍ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TRONG TIẾNG TÀY - NÙNG

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

NÙNG TRÍ CAO - quan điểm 1

Popular Posts

CẨU CHỦA CHENG VÙA (CHÍN CHÚA TRANH VUA)

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 1

Các thì trong tiếng Tày - Nùng

VẤN ĐỀ CƯƠNG VỰC NƯỚC ÂU LẠC

VẤN ĐỀ ÂU VIỆT VÀ LẠC VIỆT

TRUYỀN THUYẾT TÀY - NÙNG: 3 TRUYỆN

MỘT GIẢ THIẾT VỀ SỰ PHÂN CHIA CÁC DÂN TỘC TÀY, NÙNG

Người truyền lệnh bằng tiếng Tày trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 24

SLON PHUỐI TÀY - NÙNG. BÀI 42